CEO Phạm Hà: Du lịch Việt Nam cần có ‘kỷ nguyên mới' văn minh, chuyên nghiệp hơn
Như Tổng bí thư Tô Lâm nói rằng đây là “kỷ nguyên trỗi dậy của dân tộc” thì du lịch cũng cần có “kỷ nguyên mới” để văn minh, bài bản, chuyên nghiệp hơn… thu hút được nhiều du khách quốc tế đến Việt Nam có trách nhiệm hơn.
Trong những năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam đã trở thành một yếu tố quan trọng trong nền kinh tế, góp phần tạo ra nhiều ảnh hưởng tích cực đến các lĩnh vực khác và đồng thời giúp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc.
Trong năm 2024, du lịch Việt Nam là điểm sáng, đóng góp mạnh mẽ vào GDP và tạo động lực cho sự phát triển nền kinh tế nói chung. Cụ thể, trong 11 tháng năm 2024, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 17,5 triệu lượt, tăng 38,9%, khách nội địa đạt 110 triệu lượt, tăng 1,6%. Tổng thu từ du khách ước đạt khoảng 840.000 tỷ đồng, tăng 23,8%.
Trong năm qua, du lịch Việt Nam cũng để lại nhiều ấn tượng trên bản đồ du lịch thế giới khi vinh dự được Giải thưởng Du lịch thế giới (World Travel Awards-WTA) tôn vinh ở 3 hạng mục: Điểm đến hàng đầu châu Á, Điểm đến di sản hàng đầu châu Á và Điểm đến thiên nhiên hàng đầu châu Á.
Với tiêu chí phát triển bền vững, ngành du lịch Việt Nam hướng tới sản phẩm đặc sắc, dịch vụ chuyên nghiệp, thủ tục thuận tiện, đơn giản, giá cả cạnh tranh, môi trường vệ sinh sáng, xanh, sạch đẹp, an toàn.
Nhìn lại bức tranh ngành du lịch năm qua, Bộ trưởng VHTT&DL Nguyễn Văn Hùng bày tỏ, bên cạnh những kết quả đạt được từ những con số thống kê, du lịch Việt Nam đã vươn ra mạnh mẽ với thế giới bằng các hoạt động xúc tiến, quảng bá. Trong đó, hai chương trình lớn mang lại lợi ích lâu dài là Chương trình xúc tiến du lịch – điện ảnh Việt Nam tại Hoa Kỳ với chủ đề “Việt Nam – Điểm đến mới của điện ảnh thế giới”. Sự kiện nhận được đánh giá cao từ phía Hoa Kỳ và các nhà làm phim nổi tiếng thế giới. Sau hội nghị, nhiều biên bản hợp tác đã được ký kết và có ít nhất 5 đoàn làm phim quốc tế đến Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành du lịch Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế cần sớm khắc phục như cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, sản phẩm du lịch chưa phong phú… Nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành, đặc biệt là nhân lực giỏi ngoại ngữ. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích, danh thắng gắn với phát triển du lịch hiệu quả chưa cao…
Do đó, các chuyên gia khuyến nghị ngành du lịch Việt Nam cần xem xét lại sức cạnh tranh với các nước trong khu vực và giải quyết những bất cập để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Ngành du lịch cũng cần đánh giá lại các nguồn lực tài chính, chính sách và nhân lực hiện có để phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai.
Trong năm 2025, ngành du lịch Việt Nam đặt mục tiêu đón từ 22 - 23 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ 120 - 130 triệu lượt khách nội địa và đạt tổng thu từ du lịch khoảng 980 - 1.050 nghìn tỷ đồng.
Nhìn lại ngành du lịch Việt Nam trong thời gian qua, Tiến sĩ Phạm Hà – người sáng lập và CEO của LuxGroup – đã có những ý kiến đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành du lịch nước nhà trong thời gian tới.
Mới đây, Bộ VHTTDL đưa ra mục tiêu ngành du lịch Việt Nam trong năm 2025, với 22 - 23 triệu lượt khách quốc tế và 120 - 130 triệu lượt khách nội địa. Ông đánh giá thế nào về những con số này?
Thực tế, tôi đã kỳ vọng mục tiêu sẽ là 28 triệu lượt khách, nhưng có vẻ như "truyền thống" của Việt Nam là đặt mục tiêu thấp. Ví dụ, ngành du lịch Thái Lan luôn đặt mục tiêu tham vọng và tìm mọi cách để đạt được chúng. Họ xây dựng chiến lược dài hạn và ngắn hạn, phù hợp với từng bối cảnh cụ thể để đạt được các mục tiêu.
Mặc dù mục tiêu mà ngành du lịch Việt Nam đưa ra không phải quá cao, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải làm gì để đạt được nó. Liệu khi đưa ra mục tiêu này, đã có sự nghiên cứu thị trường đầy đủ chưa? Chúng ta cần phải xem xét nguồn khách đến từ đâu và phân tích kỹ lưỡng để đạt được mục tiêu một cách hiệu quả. Đó mới thật sự là những vấn đề cần quan tâm bởi con số 22 - 23 triệu lượt khách quốc tế không phải quá cao.
Theo ông, để đạt được mục tiêu này, du lịch Việt Nam cần có những thay đổi gì?
Tôi nghĩ rằng việc đặt mục tiêu này đã có nghiên cứu thị trường, nhưng con số đưa ra vẫn mang tính chất cảm tính, chung chung, chưa đi vào chi tiết. Ví dụ, với mục tiêu 23 triệu khách, chúng ta cần nắm rõ thị trường nào đang phát triển, thị trường nào đang nổi trội. Cần phân tích kỹ về nguồn khách, quản lý điểm đến hiệu quả, và quyết định điểm đến nào cần dừng đón khách, điểm đến nào cần thúc đẩy để thu hút nhiều khách hơn.
Trong năm 2024, du lịch Việt Nam đã đón một lượng lớn khách Ấn Độ và ghi nhận sự tăng trưởng từ thị trường này. Tuy nhiên, việc đón quá nhiều khách có thể dẫn đến tình trạng quá tải ở các điểm đến, từ dịch vụ lưu trú, ẩm thực đến các dịch vụ khác. Chính vì vậy, du lịch Việt Nam cần phải định vị lại điểm đến, nguồn khách và lượng khách để tránh tình trạng quá tải.
Trước đây, Việt Nam đón rất nhiều khách từ Úc và New Zealand và lọt vào top 10 thị trường nguồn. Tại sao chúng ta không phát triển các thị trường này bằng các chính sách như miễn visa để thu hút khách, khi có các đường bay thẳng. Bên cạnh đó, Mỹ và Canada cũng là những thị trường nguồn lớn và có thể được đầu tư nhiều hơn để thu hút khách.
Ngoài ra, ngành du lịch cần chú trọng đến các thị trường nguồn có khách ở lại lâu và chi tiêu nhiều. Tôi cho rằng các thị trường như Tây Âu, Đông Âu, và Trung Đông là những thị trường khách có chi tiêu mạnh mẽ.
Một yếu tố quan trọng khác là nhân lực du lịch, đặc biệt là khả năng sử dụng ngoại ngữ. Du khách sẽ cảm thấy thoải mái và dễ chịu hơn khi được giao tiếp bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ.
Bên cạnh đó, các sản phẩm du lịch cũng cần phải đa dạng, phong phú và phù hợp với mong muốn của du khách. Cần tìm hiểu xem khách thích trải nghiệm sản phẩm nào, du lịch mạo hiểm, thể thao hay du lịch MICE... để có chiến lược marketing phù hợp, kể cả online và offline.
Du lịch Thái Lan đang làm rất tốt điều này, đặc biệt là trong việc nghiên cứu sâu hành vi tiêu dùng của khách hàng. Từ đó, họ đầu tư ngân sách để đưa ra các sản phẩm phù hợp, đánh trúng đối tượng khách hàng.
Chính phủ và doanh nghiệp du lịch cần làm gì để thúc đẩy tăng trưởng ngành du lịch Việt Nam trong năm 2025?
Các chính sách của du lịch Việt Nam cần phải cởi mở hơn đối với một số thị trường nhất định. Ví dụ, với thị trường Ấn Độ, nơi đã thu hút lượng khách lớn, chúng ta không cần quá chú trọng các hoạt động xúc tiến. Thay vào đó, chúng ta nên tập trung vào các thị trường khác như Úc, Trung Đông, Mỹ và Canada, với các chính sách hấp dẫn như miễn visa và tăng cường quảng bá, đặc biệt là đầu tư vào nhân lực du lịch giỏi ngoại ngữ để thu hút du khách.
Theo ông, ngành du lịch Việt Nam sẽ đối mặt với những thách thức nào trong năm 2025? Liệu có giải pháp nào cho các thách thức này?
Việt Nam đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các nước trong khu vực. Nếu chúng ta không sáng tạo và đổi mới, sẽ không có đủ nguồn lực để định vị lại thương hiệu du lịch quốc gia. Ngành du lịch Việt Nam cũng cần phát triển các sản phẩm du lịch mới và sáng tạo trong cách kết nối với du khách, bởi chúng ta đang lạc hậu so với các nước trong khu vực.
Cạnh tranh đang trở nên khốc liệt, nhưng du lịch Việt Nam vẫn theo cách làm cũ. Thương hiệu du lịch Việt Nam đã trở nên quá cũ. Sau đại dịch Covid-19, hành vi của du khách đã thay đổi, nhưng ngành du lịch Việt Nam chưa có nhiều đổi mới.
Ví dụ như Thái Lan, họ luôn thay đổi và sáng tạo trong chiến lược để thu hút du khách, vì Chính phủ Thái Lan xem du lịch là ngành kinh tế chủ lực và đóng góp lớn vào GDP. Thái Lan đã đầu tư mạnh vào du lịch, từ trung ương đến địa phương, vì du lịch đóng góp rất lớn vào phát triển kinh tế, từ vận tải, ăn uống, đến nông nghiệp và các ngành nghề khác, tạo công ăn việc làm cho lao động địa phương.
Điều này là một điểm mà du lịch Việt Nam còn thiếu. Nếu chúng ta không đổi mới từ chính sách, con người, sản phẩm, và chiến lược marketing, chúng ta sẽ bị tụt lại phía sau. Trong năm 2025, Thái Lan đặt mục tiêu đón 40 triệu lượt khách quốc tế, trong khi Việt Nam chỉ đặt mục tiêu khiêm tốn 23 triệu lượt, cho thấy du lịch Việt Nam chưa chủ động trong việc thu hút khách quốc tế và định vị thương hiệu du lịch quốc gia.
Thay vì các hội chợ, các road show, du lịch Việt Nam cần thay đổi. Việt Nam có nhiều điều hấp dẫn như văn hóa du lịch, di sản, văn hóa ẩm thực, phong cách sống và con người Việt Nam. Thiên nhiên của chúng ta cũng rất tươi đẹp. Với những điểm mạnh đó, chúng ta có những khác biệt độc đáo để thu hút du khách. Vấn đề là làm thế nào để làm nổi bật những điều đó và tạo ra câu chuyện hấp dẫn hơn cho du khách, từ đó tự tạo ra nội dung và kể chuyện để chạm vào cảm xúc của khách hàng, cũng như marketing truyền thông trên các nền tảng mạng xã hội khác thay vì cách marketing truyền thống, hội chợ.
Ngoài ra cần có sự kết hợp giữa khối tư nhân và khối nhà nước để đưa ra một sức mạnh chung, quảng bá cho du lịch Việt Nam.
Đây có thể là cơ hội nhưng cũng là thách thức đối với du lịch Việt Nam.
Công nghệ và chuyển đổi số sẽ đóng vai trò gì trong sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam trong năm 2025?
Công nghệ và chuyển đổi số là một xu hướng chung trên toàn cầu, trong đó bao gồm cả chuyển đổi xanh và kinh tế tuần hoàn, hướng tới mục tiêu Net Zero. Đây không chỉ là vấn đề của ngành du lịch mà còn là mục tiêu chung của tất cả các ngành, nhằm đạt được sự phát triển bền vững.
Vậy cơ sở hạ tầng du lịch thì sao? Ông kỳ vọng gì về việc cải thiện cơ sở hạ tầng du lịch ở Việt Nam?
Mặc dù cơ sở hạ tầng du lịch ở Việt Nam đã có sự cải thiện, như kết nối hàng không và đường bộ giữa các tỉnh thành, nhưng chúng ta vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Các kết nối hàng không vẫn chưa thật sự thuận tiện, như từ sân bay Nội Bài về trung tâm Hà Nội vẫn còn nhiều bất cập. Các cảng tàu thủy nội địa như ở TP.HCM, Đà Nẵng... cũng cần cải tiến, trong khi các cảng biển quốc tế ở các tỉnh ven biển cần được cải thiện để phục vụ du khách quốc tế.
Nhiều năm qua, du lịch Việt Nam vẫn gắn với hình ảnh "du lịch giá rẻ". Ông nghĩ điều này tốt hay xấu và vì sao?
Mặc dù du lịch Việt Nam được cho là "giá rẻ", nhưng thực tế không phải như vậy. Chi phí cho các dịch vụ như lưu trú, ăn uống, vận tải... cũng không phải là rẻ. Điều này có thể khiến trải nghiệm của khách hàng không được như mong đợi. Chính vì thế, chúng ta cần phải định vị lại thương hiệu quốc gia, tạo ra một thông điệp rõ ràng hơn về du lịch Việt Nam.
Như Tổng bí thư Tô Lâm nói rằng đây là “kỷ nguyên trỗi dậy của dân tộc” thì du lịch cũng cần có “kỷ nguyên mới” để văn minh, bài bản, chuyên nghiệp hơn… thu hút được nhiều du khách quốc tế đến Việt Nam có trách nhiệm hơn.
Ông từng nói rằng đã đến lúc ngành du lịch cần nhìn vào con số thống kê một cách chính xác. Theo ông, những tiêu chí nào có thể dùng để đánh giá sự biến động của ngành du lịch?
Tôi cho rằng các con số thống kê hiện nay chưa mang lại hiệu quả cao vì chúng chủ yếu mang tính ước đoán và thiếu tính chính xác. Các số liệu này cần phải được định lượng chính xác hơn để có thể làm cơ sở cho việc hoạch định và đầu tư. Thay vì chỉ đếm lượt khách, chúng ta cần quan tâm đến việc khách hàng chi tiêu bao nhiêu và những đóng góp của họ đối với nền kinh tế địa phương.
Các con số của ngành du lịch Việt Nam dường như đang "nhảy múa", năm sau cao hơn năm trước, không biết thống kê như thế nào, dựa trên tiêu chí nào. Có thể nói những con số này chưa biết nói, chưa áp dụng được trong thực tế. Những điều cần thiết mà doanh nghiệp cần như thị trường này có bao nhiêu khách, chi tiêu ra sao, chiếm bao nhiêu phần trăm... thì không có.
Hiện nay, một số nước đã bỏ việc đếm số khách để nói lên sự tăng trưởng mà tính đến kinh tế bao trùm, tức là người khách đó đến và họ chi trả bao nhiêu cho kinh tế địa phương. Đó mới là thước đo cho giá trị của du lịch. Từ đó, họ có những đầu tư xứng đáng cho du lịch. Việt Nam đã đến lúc thay đổi tư duy đếm khách tính tiền mà phải quan tâm đến việc người khách đó đến Việt Nam chi tiêu bao nhiêu, họ mang lại điều gì cho kinh tế địa phương, mang lại điều gì cho hình ảnh, mối quan hệ giữa hai nước… mới có được chính sách phù hợp. Số lượng khách nhiều cũng dẫn đến việc quá tải điểm đến, ô nhiễm môi trường…
Tôi mong rằng trong năm 2025, những con số ấy cần cụ thể được, lượng hóa được, cân đo đong đếm được... mới có tác dụng trong việc hoạch định, đầu tư... để tăng trưởng. Hơn nữa, du lịch Việt Nam cần chú trọng chất lượng hơn số lượng. Số lượt khách bao nhiêu không quan trọng bằng việc khách hàng chi tiêu bao nhiêu, họ tiêu tiền nhưng vẫn vui vẻ, tức là thay vì đếm khách chúng ta cần đếm tiền, đây mới là mục đích cuối cùng của du lịch.
Bên cạnh đó, du lịch Việt Nam cần phát triển bền vững, ESG, xanh tiến tới Việt Nam Net Zero (khí thải ròng bằng không) vào năm 2050. Đây là điều du lịch Việt Nam chưa làm được và cần phải làm trong năm 2025.
Cảm ơn ông vì những chia sẻ!