Bác sĩ phẫu thuật đầu tiên của Việt Nam: Xuất thân từ dòng dõi quý tộc, là người duy nhất được Pháp công nhận điều này!
Ông là một trong những người tiên phong trong lĩnh vực y học hiện đại, mở đường và định hướng cho các nghiên cứu và thực hành y khoa.
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, có những thầy thuốc mà tên tuổi của họ gắn liền với những công trình nghiên cứu vô giá, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của nền y học nước nhà và cả thế giới.
Nếu thế kỷ XIV có danh y Tuệ Tĩnh, thế kỷ XVIII có Hải Thượng Lãn Ông, thì sang thế kỷ XX, Giáo sư Hồ Đắc Di chính là một trong những bác sĩ tiêu biểu, có nhiều cống hiến quan trọng cho nền y học Việt Nam.

Giáo sư Hồ Đắc Di sinh năm 1900 trong một gia đình quý tộc ở Huế, có truyền thống khoa bảng. Bà nội ông là con gái của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, cha là Quận công Hồ Đắc Trung, còn các anh em ruột đều là những trí thức nổi bật trong nhiều lĩnh vực.
Dù xuất thân từ gia đình Nho học, nhưng cha mẹ ông lại định hướng con theo văn hóa Tây phương. Ông theo học tại Trường Lyceé Albert Sarraut (Hà Nội) trước khi được gửi sang Pháp du học chuyên ngành y từ năm 1918 đến 1932.
Tại Pháp, ông học tập tại Bệnh viện Cochin, dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Ferdinand Widal – một tên tuổi lừng danh của y học lâm sàng Pháp. Ông trở thành người Việt Nam đầu tiên đỗ bằng Thạc sĩ Y khoa Pháp, tiếp tục thi đỗ bác sĩ nội trú và làm phẫu thuật tại Bệnh viện Tenon. Trong 4 năm làm trợ lý cho Giáo sư Gernez, ông đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm về phẫu thuật và phương pháp điều trị tiên tiến.
Một trong những đóng góp lớn của ông là sáng tạo ra phương pháp nối thông dạ dày – tá tràng để điều trị chứng hẹp môn vị do loét dạ dày – tá tràng, thay thế phương pháp cắt bỏ dạ dày trước đó. Phương pháp này được đặt theo tên ông và được nhiều sách y học thừa nhận trong hàng chục năm sau.
Năm 1919, khi còn là sinh viên y khoa tại Pháp, ông bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi “Bản yêu sách” nổi tiếng của nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc gửi Hội nghị Hòa bình Versailles, yêu cầu quyền tự do cho người dân Việt Nam.
Một ngày Chủ nhật năm đó, ông Hồ Đắc Di cùng bạn đến trụ sở Hội Sinh viên An Nam ở Paris và có cơ duyên gặp Nguyễn Ái Quốc, Phan Chu Trinh và luật sư Phan Văn Trường. Cuộc gặp gỡ này đã thay đổi cuộc đời Hồ Đắc Di, khiến ông từ một trí thức y khoa trở thành người đồng hành với phong trào yêu nước. Từ đó, ông bí mật tham gia phát hành các số báo "Người cùng khổ" và "Việt Nam hồn" đến tay công nhân Việt Nam tại Pháp.
Sau 13 năm học tập và làm việc tại Pháp, bác sĩ Hồ Đắc Di trở về nước với mong muốn cống hiến tri thức cho đồng bào. Tuy nhiên, khi làm việc tại Bệnh viện Huế và Quy Nhơn, ông vấp phải sự kỳ thị của chính quyền thực dân, chỉ được phân công làm bác sĩ tập sự.

Sau đó, ông được bác sĩ Leroy des Barres, Hiệu trưởng Trường Đại học Y - Dược Hà Nội mời về giảng dạy tại Trường Đại học Y - Dược thuộc Đại học Đông Dương. Thời điểm đó, tại Bệnh viện Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức) và khắp Đông Dương, chỉ có hai bác sĩ người Pháp được phép phẫu thuật.
Không chấp nhận bất công, Hồ Đắc Di nhiều lần đấu tranh để được tham gia mổ. Cuối cùng, tài năng của ông đã được thừa nhận. Đến năm 1945, ông đã công bố 37 công trình nghiên cứu trên các tạp chí y học danh tiếng của Pháp. Hội đồng Giáo sư Trường Đại học Y Hà Nội và chính quyền thực dân đã buộc phải công nhận ông là Giáo sư Y khoa - người Việt Nam duy nhất đạt danh hiệu này trong gần 80 năm Pháp đô hộ.
Tuy nhiên, làm việc dưới chế độ thực dân khiến ông luôn cảm thấy bức bối và tủi nhục. Khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra năm 1945, ông đã hoàn toàn tin tưởng vào con đường mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dẫn dắt và tích cực cống hiến cho nền y học nước nhà.
Ông viết trong hồi ký: “…Tất cả những ai trải qua những ngày nhọc nhằn, day dứt về lương tâm dưới chế độ cũ ắt sẽ lao vào cơn lốc của cách mạng, mỗi khi ánh lửa của nó rọi sáng tâm hồn. Đối với những người trí thức cũ thì sự đổi đời bắt đầu từ sự chọn lựa nơi mà lương tâm mình được yên ổn nhất”.

Trong suốt cuộc đời, Giáo sư Hồ Đắc Di đã làm tròn nhiều công việc quan trọng như Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội (32 năm); Tổng Thanh tra Y tế; Tổng Giám đốc Đại học vụ; Ủy viên Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước; Đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa V; Ủy viên Thường vụ Quốc hội từ khóa II đến khóa IV, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Pháp. Giáo sư đã được Nhà nước tặng thưởng 8 Huân chương cao quý; năm 1996, được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và kỹ thuật.
Không chỉ cống hiến cho khoa học, ông còn có quan điểm sâu sắc về đạo đức người thầy thuốc, nhấn mạnh rằng y học không chỉ là chữa bệnh mà còn là sự đồng hành với bệnh nhân bằng tâm đức và trách nhiệm.
Noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, Giáo sư Hồ Đắc Di để lại di chúc với mong muốn không tổ chức ma chay tốn kém và hiến xác cho bộ môn giải phẫu phục vụ giảng dạy sinh viên y khoa.
Ông qua đời ngày 25/6/1984, hưởng thọ 84 tuổi. Để tri ân những cống hiến to lớn của ông, Hà Nội đã đặt tên ông cho một tuyến phố: phố Hồ Đắc Di, nằm gần phố Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch và Đặng Văn Ngữ – những tên tuổi lẫy lừng trong ngành y Việt Nam.