Chính thức từ 1/10, phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng IVF
Nghị định mới quy định rõ điều kiện của người nhận tinh trùng, noãn, phôi để sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, trong đó có phụ nữ độc thân.
Từ ngày 1/10/2025, Nghị định 207/2025/NĐ-CP chính thức có hiệu lực, với nhiều thay đổi liên quan đến việc hiến, nhận, sử dụng, lưu giữ và gửi tinh trùng, noãn, phôi; sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; điều kiện, hồ sơ, thủ tục, thẩm quyền cho phép các cơ sở khám, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

Nghị định quy định rõ điều kiện của người nhận tinh trùng, noãn, phôi để sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như sau:
Người nhận tinh trùng phải là người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh, mà nguyên nhân vô sinh là do người chồng hoặc là phụ nữ độc thân có nhu cầu sinh con và noãn của họ bảo đảm chất lượng để thụ thai.
Người nhận noãn phải là người Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam, hoặc người nước ngoài có chồng là người Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam và là người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do người vợ không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai.
Người nhận phôi thuộc một trong các trường hợp: Người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh, nguyên nhân do cả vợ và chồng; Người vợ trong cặp đôi từng thực hiện IVF nhưng thất bại (không bao gồm các trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo); Phụ nữ độc thân không có noãn hoặc noãn không đảm bảo chất lượng để thụ thai.
Lưu ý, người nhận tinh trùng, noãn, phôi phải có đủ sức khỏe theo quy định của Bộ Y tế để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.

Nghị định cũng quy định cụ thể hồ sơ, thủ tục đề nghị mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:
Cặp vợ chồng vô sinh có nguyện vọng nhờ mang thai hộ phải nộp hồ sơ đến cơ sở y tế được phép thực hiện kỹ thuật này, bao gồm:
Đơn đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (theo mẫu tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định).
Bản xác nhận của UBND cấp xã nơi thường trú của bên mang thai hộ hoặc bên nhờ mang thai hộ, hoặc giấy tờ chứng minh mối quan hệ thân thích cùng hàng giữa hai bên theo quy định tại khoản 5 Điều 2 của Nghị định này, có công chứng/chứng thực và chịu trách nhiệm về tính xác thực.
Giấy tờ chứng minh người mang thai hộ đã từng sinh con, như: Giấy khai sinh, Giấy chứng sinh của con hoặc xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú.
Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định tại Điều 96 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Sau khi tiếp nhận đầy đủ hồ sơ theo quy định, cơ sở y tế được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ sẽ: Tổ chức khám sức khỏe cho người mang thai hộ và cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ; Xác nhận người vợ không thể mang thai và sinh con, ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; Đánh giá khả năng mang thai hộ của người phụ nữ nhận mang thai hộ.
>>Phương Oanh tiết lộ mang song thai bằng IVF, sức khỏe và nhan sắc hiện tại gây bất ngờ