Hồi ức của cựu tù Hỏa Lò, Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Tiến Hà về ngày Quốc khánh lịch sử 2/9/1945
Đã tròn 80 năm kể từ khoảnh khắc lịch sử Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, nhưng với nhà giáo Nguyễn Tiến Hà, ký ức ấy vẫn vẹn nguyên, rõ nét như chỉ mới hôm qua.

Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Tiến Hà tên khai sinh là Nguyễn Hữu Tự, sinh năm 1928 trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Ông là em trai của đồng chí Nguyễn Hữu Văn, còn được biết đến với tên gọi Tạ Quang Chiến - một trong những cận vệ, thư ký thân cận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời là một trong tám cận vệ được Bác Hồ đặt tên gồm: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi.
Ngay từ thuở thiếu thời, chàng trai Nguyễn Tiến Hà đã ấp ủ khát vọng được cống hiến cho đất nước. Năm vừa tròn 16 tuổi, khi còn theo học ban Tú tài tại trường Louis Pasteur, ông đã gia nhập Đoàn Thanh niên Cứu quốc Thành Hoàng Diệu.
Từ đây, ông trở thành một thầy giáo trẻ, mang con chữ đến với người lao động, dạy học cho những phận đời cơ cực, những “con sen, cậu nhỏ” (người giúp việc trong các gia đình). Ông Hà tích cực tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ, coi việc xóa nạn mù chữ là trách nhiệm thiêng liêng của một thanh niên yêu nước.
Lớp học của Hội Truyền bá Quốc ngữ tuy mang danh dạy chữ nhưng thực chất là nơi các thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu âm thầm gieo mầm lý tưởng cách mạng, truyền đi chủ trương của Mặt trận Việt Minh. Thông qua công việc giảng dạy, thầy giáo trẻ cùng các đồng chí đã bồi dưỡng cho nhiều học sinh tinh thần yêu nước, đồng thời khéo léo vận động các em tham gia kháng chiến.

Đầu năm 1945, khi cả nước dâng trào khí thế cách mạng, Nguyễn Tiến Hà cùng đồng đội hăng hái rải truyền đơn, kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh, tham gia huấn luyện vũ khí thô sơ, góp sức chống giặc, chuẩn bị cho ngày toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền. Ông cùng những người đồng đồi len lỏi khắp các ngõ phố, khu chợ, vận động từng người dân tham gia công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đặc biệt, ông Hà còn là một trong những nhân chứng lịch sử có mặt tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, chứng kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trước hàng vạn đồng bào, trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong những ngày Thủ đô rộn ràng chuẩn bị cho Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2025), chúng tôi may mắn được gặp Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Tiến Hà. Ông xúc động chia sẻ những ký ức hào hùng, những khoảnh khắc không thể nào quên đã in đậm trong tâm khảm suốt chặng đường lịch sử của dân tộc.

Ở tuổi 97, Phó ban Thường trực Ban Liên lạc các chiến sĩ Thanh niên cứu quốc - Mặt trận Việt Minh Thành Hoàng Diệu vẫn giữ được phong thái hào sảng, khí thế của người chiến sĩ cách mạng, xen lẫn vẻ nhẹ nhàng, lịch thiệp của giới tri thức Hà Nội xưa. Thời gian đã khiến sức khỏe ông giảm sút, đôi chân không còn vững, ánh mắt cũng nhòa đi, nhưng khi nhắc về những cột mốc quan trọng trong cuộc đời chiến đấu bảo vệ non sông, ông lại chẳng có chút nhầm lẫn nào.

Ông kể rằng sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, một cuộc mít tinh lớn đã diễn ra với sự tham dự của gần một triệu đồng bào. Trong không khí hào hùng và thiêng liêng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hôm ấy, chàng thanh niên Nguyễn Tiến Hà dẫn đầu đoàn người từ Bạch Mai tiến về Quảng trường Ba Đình. Dọc đường, thêm nhiều người khác nhập đoàn. Cứ thế, hàng ngàn người hòa vào biển người, cả dân tộc vỡ òa trong niềm sung sướng vô bờ.
“Lúc bấy giờ tôi còn là thanh niên ở Đoàn Thanh niên Cứu quốc Hoàng Diệu. Tôi cùng đồng đội được sắp xếp đứng gần kỳ đài, có thể quan sát rõ nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng. Quảng trường Ba Đình đông nghịt người, ai nấy đều chăm chú dõi về kỳ đài, hồi hộp để xem Chủ tịch nước là ai, bởi trước đó chúng tôi chỉ được nghe đến cái tên Nguyễn Ái Quốc, sau lại có tin đồn rằng Nguyễn Ái Quốc chính là Hồ Chí Minh”.
Kỳ đài lúc đó được thiết kế rất đơn giản, mặt sàn ghép bằng gỗ, phía dưới quây vải màu đỏ, phía trên màu trắng, do kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh thiết kế. Ban đầu, lễ khai mạc dự kiến bắt đầu lúc 2h chiều nhưng phải lùi đến 3h vì Bác Hồ trước khi vào Quảng trường Ba Đình đã đi qua nhiều tuyến phố, đồng bào đứng chật kín hai bên đường chào đón đoàn Chính phủ. Khi Bác xuất hiện, biển người ào ào vỗ tay như sóng dậy.

Nhắc lại cảm xúc khi được tận mắt nhìn thấy Bác Hồ giữa quảng trường, ông Hà không giấu được ánh mắt rưng rưng nghẹn ngào: “Lúc đó, tôi vừa bất ngờ, vừa xúc động. Bởi, trong suy nghĩ của mình, lãnh tụ thì hẳn phải to lớn, bệ vệ nhưng Bác Hồ lại rất giản dị, chỉ mặc bộ quần áo kaki đã bạc màu, cổ cao. Đó là lần đầu tiên tôi được tận mắt nhìn thấy vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc bằng da bằng thịt”.
Khoảnh khắc Bác Hồ cất tiếng hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”, ông Hà cùng hàng vạn người phía dưới đồng loạt hô vang: “Rõ! Rõ!” trong niềm xúc động vỡ òa. Với ông, đó là lần đầu tiên ông thấy một vị lãnh tụ gần gũi và bình dị đến vậy- thân thuộc như người cha, người anh trong gia đình.
Hàng vạn người tham dự cuộc mít tinh đều trật tự, trang nghiêm và rồi vỡ òa sung sướng khi nghe Bác Hồ dõng dạc tuyên bố với toàn thế giới:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Những hình ảnh tự hào đó đến nay vẫn còn in sâu trong tâm trí ông Hà: “Có thể nói, ngày 2/9 là ngày Tết Độc lập - mốc son đánh dấu sự đổi đời của đất nước ta, từ thân phận nô lệ trở thành một quốc gia độc lập, tự do, có quyền mưu cầu hạnh phúc.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong Tuyên ngôn Độc lập, con người sinh ra có quyền tự do và bình đẳng, có quyền mưu cầu sự sống. Giờ đây Việt Nam thực sự độc lập, tự do và ngang hàng với các nước trên thế giới. Tôi cảm thấy sung sướng và tự hào về con người và đất nước Việt Nam. Đối với nhân dân, đặc biệt là thanh niên, lời Bác đã ăn sâu vào tâm trí. Như thể tôi được sống lại, cảm nhận ánh sáng của tự do một lần nữa”.

Tuyên ngôn Độc lập kết thúc bằng một lời thề thiêng liêng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Chính lời thề ấy đã in sâu vào tâm trí, sau này trở thành lý tưởng để người thanh niên Nguyễn Tiến Hà không ngừng chiến đấu: Phấn đấu để giữ gìn độc lập và tự do cho đất nước. Thề chết chứ không làm nô lệ!

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chính phủ Cách mạng lâm thời ra đời, nước ta chính thức trở thành một quốc gia độc lập. Tuy nhiên, chính quyền non trẻ ấy lại ra đời trong thế “ngàn cân treo sợi tóc” - vừa phải đối mặt với thù trong giặc ngoài, vừa chống chọi với nạn đói hoành hành và ngân khố cạn kiệt.
“Chỉ những ai sống trong giai đoạn ấy mới thấu hết những gian khổ. Khi đó, dân tộc ta cùng lúc phải chống lại 3 kẻ thù: giặc đói khiến hơn 2 triệu đồng bào chết, giặc dốt khi khoảng 90% người Việt Nam mù chữ và giặc ngoại xâm”, ông Hà nói.
Những năm tháng ấy, ông Hà cùng Đoàn Thanh niên Cứu quốc Thành Hoàng Diệu đi khất thực, vận động nhân dân tiết kiệm, góp gạo vào “hũ gạo cứu đói”. Song song với đó là phong trào diệt giặc dốt - người biết nhiều dạy người biết ít, người biết ít dạy người chưa biết, để cả dân tộc cùng biết chữ quốc ngữ.
Đến ngày 19/12/1946, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông Hà xung phong gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới vỏ bọc là “Giáo sư Trần Hữu Thỏa”, ông dạy các môn Anh, Pháp, Toán tại những vùng địch hậu.

“Thông qua việc dạy học, tôi cùng các đồng chí khác đã bồi dưỡng cho nhiều người tinh thần yêu nước, khéo léo vận động học sinh của mình đi theo kháng chiến. Cũng từ đây, tôi chính thức mang tên Nguyễn Tiến Hà như một lời thề ‘nguyện tiến về Hà Nội’”, ông kể.
Năm 1949, ông là cán bộ đại đội của Thành đội Hà Nội. Trong một trận chiến ác liệt, ông bị địch bắt vào tháng 5/1950 và đưa về Sở Mật thám (nay là số 87 Trần Hưng Đạo).
“Khi dấn thân vào con đường cách mạng, tôi hiểu rằng phải chấp nhận gian khổ. Đây là lời hứa trung thành với lý tưởng cách mạng và bảo vệ những giá trị đó. Tôi luôn tin tưởng vào lãnh tụ Hồ Chí Minh. Như Bác đã nói: ‘Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi’ và gian khổ là điều tất yếu”, ông Hà hồi tưởng lại giai đoạn tối tăm, gian khổ đó.
Tại Sở Mật thám, ông cùng một số đồng chí tìm cách đào tường vượt ngục. Dù trốn thoát, nhóm ông bị vây bắt trở lại trên đường ra căn cứ. Lần này, ông phải chịu những đòn tra tấn tàn bạo hơn nhiều lần nhưng vẫn một mực không khai.

Tại nhà tù Hỏa Lò, nơi được ví như “địa ngục trần gian”, dù điều kiện sinh hoạt vô cùng thiếu thốn, kham khổ nhưng chiến sĩ cách mạng Nguyễn Tiến Hà vẫn tiếp tục có những ngày tháng hoạt động sôi nổi cùng các đồng chí, đồng đội.
Ông được bầu vào Ban Chi ủy, sau đó giữ chức Bí thư chi bộ nhà tù, lãnh đạo các hoạt động bí mật. Đồng thời, ông cùng đồng chí mở các lớp học trong ngục tối.
“Tôi đứng lớp dạy văn hóa, chính trị, ngoại ngữ. Anh em thường gọi tôi là thầy giáo, có người còn vui miệng gọi là ‘thầy Hiệu trưởng’. Từ những lớp học ấy, nhiều đồng chí sau khi ra khỏi nhà tù đã có thêm kiến thức, năng lực để tiếp tục phục vụ cách mạng, không ít người sau này trở thành kỹ sư, bác sĩ, nhà giáo…”, ông xúc động hồi tưởng.
Cuối năm 1952, không thể buộc tội, địch buộc phải trả tự do cho ông. Ngay sau khi ra khỏi tù, ông lập tức bắt liên lạc với tổ chức và hoạt động bán công khai dưới danh xưng “Giáo sư Trần Hữu Thỏa”.
Từ đó, ông tiếp tục gắn bó với sự nghiệp cách mạng, đồng thời kiên trì theo đuổi sự nghiệp giáo dục - một hành trình gắn liền với lý tưởng độc lập, tự do và khát vọng khai sáng dân tộc.


Trước khi nghỉ hưu, ông Nguyễn Tiến Hà là chuyên viên cao cấp của Bộ Giáo dục và Đào tạo, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú.
Chia sẻ về lý do gắn bó với nghề giáo, ông cho rằng đó không chỉ là sự nghiệp giáo dục, mà còn là sự nghiệp trăm năm của cả dân tộc, gắn liền với khát vọng độc lập và tự cường. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Mỗi bài học ông gửi tới học trò không chỉ là con chữ, là tri thức, mà còn là câu chuyện về niềm tin, về tinh thần bất khuất của những thế hệ đi trước. Ông luôn mong các thế hệ trẻ hiểu rằng: Hòa bình hôm nay được đánh đổi bằng máu xương và trách nhiệm của thế hệ mai sau là tiếp nối lý tưởng ấy để xây dựng một đất nước giàu mạnh, văn minh.

Mỗi khi nhìn thấy Thủ đô hôm nay rực rỡ ánh sáng, những con phố sầm uất, những công trình hiện đại mọc lên giữa lòng Hà Nội ngàn năm văn hiến, lòng ông lại dâng trào một niềm xúc động khôn nguôi. Nhà giáo Nguyễn Tiến Hà tự hào vì trong hành trình dài đầy máu lửa ấy, ông đã góp một phần nhỏ bé của mình để dựng xây nên diện mạo đất nước hôm nay. Đó không chỉ là niềm tự hào cá nhân, mà còn là niềm hạnh phúc thiêng liêng của một thế hệ đã cống hiến trọn vẹn cho Tổ quốc.
Ông nhấn mạnh: “Độc lập, tự do hôm nay là thành quả của biết bao máu xương và sự hy sinh không thể đong đếm của các thế hệ cha anh. Hòa bình chúng ta đang có không phải là món quà tự nhiên, mà được đánh đổi bằng những năm tháng chiến đấu gian khổ, nơi mỗi tấc đất đều thấm máu của người chiến sĩ”.
Trên dải đất hình chữ S này, hầu như không có vùng quê nào không có nghĩa trang liệt sĩ và cũng ít có gia đình nào không có người con ngã xuống vì Tổ quốc. Đó là minh chứng đau đáu rằng: Hòa bình hôm nay được dựng xây từ sự hy sinh cao cả của lớp lớp cha ông đi trước.
Chính vì vậy, ông nhắn nhủ thế hệ trẻ hôm nay phải biết trân trọng, gìn giữ nền hòa bình quý giá này.
“Chúng tôi - những người từng sống và chiến đấu trong khói lửa đã cố gắng giữ vững độc lập và mong rằng các bạn sẽ tiếp bước, phát huy để đất nước ngày càng to đẹp, đàng hoàng hơn. Hãy là những người sống có lý tưởng, khát vọng, dốc sức đưa đất nước đạt tới mục tiêu ‘dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh’, sánh ngang với các cường quốc năm châu.
Để làm được điều đó, thanh niên hôm nay không chỉ cần học tập, tiếp thu tinh hoa nhân loại, mà còn phải biết vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, không ngừng nghiên cứu, đổi mới, tạo ra những thành tựu khoa học mới. Chỉ khi đó, đất nước ta mới có thể khai thác hết tiềm lực vốn có, vươn lên mạnh mẽ, khẳng định vị thế xứng đáng trên bản đồ thế giới”, nhà giáo Nguyễn Tiến Hà nhắn nhủ.