Thế giới

Kinh tế trưởng Mekong Economics: Mê phở, trà đá và hành trình gắn bó hơn hai thập kỷ hiến kế giúp Việt Nam vươn tầm

Thùy Trang 30/09/2025 08:00

Bén duyên với Việt Nam sau chuyến đi 6 tuần tới Hà Nội từ năm 1990, Tiến sĩ Adam McCarty - chuyên gia kinh tế trưởng và cũng là nhà sáng lập của Mekong Economics - đã chứng kiến quá trình lột xác của kinh tế Việt Nam và cũng góp phần không nhỏ kết nối Việt Nam với các tổ chức quốc tế.

cover-web-min.png

Giữa lòng Hà Nội rợp sắc cờ đỏ sao vàng, văn phòng của Mekong Economics lặng lẽ nép mình nơi cuối ngõ Yên Thế. Ra đời năm 2001, cùng với đội ngũ các chuyên gia trong nước và quốc tế, công ty này đã thực hiện hàng trăm dự án tư vấn, nghiên cứu, góp phần định hình chính sách và bước tiến phát triển của kinh tế Việt Nam.

Người đứng sau hành trình ấy là ông Adam McCarty - Kinh tế trưởng Mekong Economics, vị học giả quốc tế chọn Việt Nam làm điểm dừng chân của đời mình.

Ông vừa là chứng nhân của những đổi thay kỳ diệu, vừa là người góp phần kiến tạo. Mê phở, thích tự mình rong ruổi xe máy qua từng con phố, Adam vẫn thường nói đùa rằng mình có “5% là người Việt Nam”. Đằng sau sự dí dỏm ấy là tình yêu sâu nặng với Hà Nội, với đất Việt - nơi ông coi như quê hương thứ hai.

Ở góc nhìn của một chuyên gia, ông tin rằng Việt Nam hôm nay đang bước vào “thời điểm vàng” để khẳng định vị thế và bứt phá, hoàn toàn đủ khả năng để trở thành nền kinh tế dẫn dắt khối ASEAN.

tit-1-web-min.png


Cơ duyên nào đưa ông đến với Việt Nam và lý do khiến ông chọn gắn bó cuộc đời mình với dải đất hình chữ S là gì?

“Tôi đến Việt Nam lần đầu năm 1990, tính ra đến nay tôi đã ở mảnh đất này còn lâu hơn nhiều người bản địa”, Kinh tế trưởng Mekong Economics Adam McCarty cười lớn.

Khi ấy tôi đang là nghiên cứu sinh Kinh tế tại Đại học Quốc gia Úc (The Australian National University). Để tìm đề tài luận án, tôi sang Hà Nội sáu tuần, làm việc tại Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

Năm sau, tôi quay lại để thực hiện khảo sát hộ gia đình ở Hà Nội và từ những số liệu đó tôi hoàn thành luận án Tiến sĩ. Hành trình của tôi tiếp tục với công việc tại UNDP, tham gia một số dự án của Ngân hàng Thế giới. Và cũng trong thời gian đó tôi quen người phụ nữ tuyệt vời sau này trở thành vợ mình. Chúng tôi kết hôn tháng 12/1993 tại Melbourne, rồi cứ thế qua lại giữa Việt Nam và Úc.

Khoảng 20 năm nay, tôi định cư hẳn ở Hà Nội. Thực ra, đó không phải một quyết định được tính toán gì lớn lao, tôi chỉ đơn giản là bị mảnh đất này cuốn hút. Ở đây vui hơn Melbourne nhiều.

Sau hơn hai thập kỷ gắn bó, đâu là điều khiến ông ấn tượng và ghi nhớ nhất? Ông nhìn nhận sự đổi thay của Việt Nam ra sao?

Điều khiến tôi say mê nhất ở Việt Nam, đặc biệt là Hà Nội, chính là sức sống và nhịp điệu náo nhiệt của thành phố, dù đó là ở khu phố cổ hay những khu đô thị mới sầm uất.

Ẩm thực Việt quá tuyệt vời. Nhưng trên hết là cảm giác về một cộng đồng gắn kết. Tại nhiều nước phát triển khác, người dân sống rải rác trong những khu ngoại ô rộng lớn và sự kết nối cũng có phần khó khăn hơn.

quote-1-web-min.png

Với tôi, phở là món ăn gói trọn hồn cốt ẩm thực Việt. Có lẽ tôi nghiêng về phở bò, nhưng một bát phở gà ngon cũng khó cưỡng. Thật khó chọn! Và điều thú vị là ẩm thực đường phố Việt Nam không ngừng sáng tạo. Bánh cuốn vốn đã quen thuộc từ lâu, nhưng giờ còn có phở cuốn. Người Việt luôn tìm tòi, đổi mới – thật tuyệt!

Tôi nhớ những ngày đầu đặt chân đến Việt Nam, năm ấy cả Hà Nội chỉ đếm trên đầu ngón tay - có lẽ ba hay bốn nhà hàng. Giờ thì tràn ngập đủ loại hình, từ quán ăn đường phố đến những nhà hàng quốc tế.

Nhưng điều làm tôi ấn tượng không chỉ dừng ở những đổi thay trong đời sống thường nhật. Sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam trong hơn ba thập kỷ qua cũng để lại dấu ấn sâu đậm.

Đầu thập niên 1990, kinh tế Việt Nam mới ở giai đoạn khởi đầu, vừa ổn định vĩ mô và mở cửa cho hộ kinh doanh cá thể. Người dân lúc đó ai cũng háo hức lập cơ sở riêng, một thời kỳ thật đáng nhớ.

Còn ngày nay, Việt Nam đã mang dáng dấp của một nền kinh tế đang bứt phá, tiến nhanh về phía nhóm quốc gia phát triển. Tốc độ thay đổi thật đáng kinh ngạc, thậm chí có thể nói là “điên rồ”.

tit-2-web.png


Là người sáng lập Mekong Economics, ông có thể chia sẻ thêm về hoạt động của tổ chức này?

Sau khi hoàn tất giai đoạn nghiên cứu và làm tư vấn trong những năm 1990, tôi dành khoảng 6-7 năm giảng dạy tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Khi đó, tôi cũng tham gia các dự án hợp tác quốc tế của Anh và Hà Lan, cùng xây dựng Chương trình Cao học Kinh tế Phát triển Việt Nam - Hà Lan (MDE), một chương trình đến nay vẫn hoạt động hiệu quả.

Khi những dự án ấy dần khép lại, tôi và vợ quyết định thành lập một công ty tư vấn trong lĩnh vực hỗ trợ phát triển. Bởi lẽ đó, năm 2002, Mekong Economics ra đời.

quote-2-web-min.png

Trong 10-15 năm đầu, Mekong Economics chủ yếu làm việc cho các nhà tài trợ tại Việt Nam. Đến năm 2012, tôi mở văn phòng tại Yangon (Myanmar) - nơi chúng tôi vẫn duy trì hoạt động cho đến nay. Hiện chúng tôi hoạt động tại Việt Nam, Myanmar, thỉnh thoảng tiến vào Campuchia, Lào và Thái Lan - tất cả đều tập trung vào lĩnh vực phát triển.

Khách hàng của chúng tôi gồm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và nhiều nhà tài trợ song phương như Úc, Mỹ.

Hơn 20 năm qua, tôi cùng đội ngũ đã triển khai khoảng 200 dự án, trung bình khoảng 10 dự án mỗi năm. Có những dự án quy mô nhỏ, như hỗ trợ học giả nghiên cứu hay đánh giá hoạt động của một tổ chức phi Chính phủ và cũng có những dự án lớn, chẳng hạn khảo sát doanh nghiệp cho Ngân hàng Thế giới.

Chúng tôi cũng từng đảm nhận nhiều nghiên cứu quy mô lớn cho ADB và hợp tác chặt chẽ với các Bộ, ngành Việt Nam như Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Tài chính - tất cả đều do các nhà tài trợ quốc tế chi trả.

Mekong Economics đã đóng góp như thế nào vào việc cung cấp các phân tích kinh tế, tư vấn chính sách cho Việt Nam và các nước trong khu vực trong suốt những năm qua, thưa ông?

Là công ty tư vấn, chúng tôi triển khai các dự án do các nhà tài trợ quốc tế cấp vốn và phối hợp chặt chẽ với cơ quan Việt Nam. Chúng tôi nghiên cứu, trình bày kết quả. Sau đó, việc áp dụng như thế nào sẽ thuộc thẩm quyền của các Bộ, ngành. Tôi đánh giá Việt Nam luôn cởi mở trong việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt từ các nước trong khu vực.

Ví dụ, vài năm trước Mekong Economics thực hiện nghiên cứu về việc tăng cường quản lý khu vực kinh doanh hộ gia đình. Câu hỏi đầu tiên đặt ra là: “Tại sao phải tăng cường quản lý? Sao không để họ tự do?”

Có hai lý do. Thứ nhất, các hộ kinh doanh cũng cần tuân thủ những chuẩn mực cơ bản như các doanh nghiệp khác. Đó là không gây ô nhiễm, không bán thực phẩm kém chất lượng, đảm bảo quyền lợi cho người lao động…Thách thức là làm sao thực thi khi số lượng hộ kinh doanh quá lớn.

Thứ hai là vấn đề thuế. Nhiều hộ kinh doanh lớn, có 20-50 lao động, lại đóng thuế ít hơn doanh nghiệp, điều đó tạo ra sự bất công. Nhiệm vụ của chúng tôi là cung cấp bằng chứng, so sánh kinh nghiệm quốc tế và đóng góp vào cuộc thảo luận để các nhà hoạch định chính sách Việt Nam có thêm dữ liệu và góc nhìn trước khi đưa ra quyết định.

quote-3-web-min.png

Vậy có thể hiểu Mekong Economics chính là “cầu nối” giữa các tổ chức quốc tế và Chính phủ Việt Nam?

Đúng vậy, ở một nghĩa nào đó. Các nhà tài trợ như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), hay các Chính phủ Úc, Đức, Pháp…cung cấp nguồn vốn. Chúng tôi tham gia đấu thầu và thực hiện những dự án mà Chính phủ Việt Nam đã đồng ý triển khai.

Ví dụ, chúng tôi có thể được mời đánh giá mức độ hiệu quả của một dự án. Đây luôn là thử thách, vì hiệu quả của viện trợ phát triển rất khó đo lường. Doanh nghiệp thì có chỉ số lợi nhuận rõ ràng; còn các dự án phát triển lại hướng đến những mục tiêu như giảm nghèo, trao quyền cho phụ nữ, hay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa - những yếu tố khó định lượng.

Dẫu vậy, khi nguồn vốn lên tới hàng trăm triệu USD, việc đánh giá là bắt buộc. Đó chính là công việc của chúng tôi: Tiến hành nghiên cứu chính sách, đánh giá dự án, thu thập dữ liệu, khảo sát doanh nghiệp và hộ gia đình, từ đó cung cấp cơ sở đáng tin cậy cho những quyết định tiếp theo.

tit-3-web.png


Xét đến tốc độ phát triển công nghệ, biến đổi khí hậu, chuỗi cung ứng toàn cầu dịch chuyển vì chiến tranh thương mại, ông nghĩ Việt Nam sẽ ở vị trí nào trên bản đồ kinh tế khu vực và quốc tế vào năm 2040?

Tôi đánh giá Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ. Trước đây, cứ khoảng 5 năm mới sửa đổi luật, còn bây giờ các cải cách diễn ra nhanh hơn nhiều. Đó là tín hiệu tích cực bởi điều quan trọng nhất là định hướng đã đúng.

Thách thức lớn nhất sẽ nằm ở khâu thực thi. Tôi tin Việt Nam hoàn toàn có thể duy trì tốc độ tăng trưởng 8-10% và ngày càng chủ động hơn trong quan hệ quốc tế cũng như quan hệ khu vực. Chẳng hạn, Việt Nam có thể khai thác tối đa các cơ hội từ Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).

quote-4-web-min.png

Theo ông, những ngành hoặc lĩnh vực nào sẽ là “đầu tàu” kéo tăng trưởng?

Tôi không thích chọn ai là người chiến thắng vì tương lai có thể thay đổi theo nhiều hướng. Từ lâu, các học giả Nhật Bản đã đưa ra khái niệm kinh tế gọi là mô hình “đàn nhạn bay”. Mô hình này mô tả cách các nền kinh tế mới nổi thường khởi đầu ở đáy chuỗi giá trị toàn cầu rồi từng bước đi lên. Cách lý giải đó nhìn chung rất xác đáng.

Lấy dệt may, da giày hay điện tử làm ví dụ: Việt Nam ban đầu chủ yếu học cách lắp ráp. Dần dần, những nhà quản lý giỏi nhất đã tích lũy kinh nghiệm để điều hành toàn bộ chuỗi kinh doanh - vốn phức tạp ở tầm quốc tế, từ giao hàng đúng hạn đến quản lý tài chính.

Các doanh nghiệp Đài Loan (Trung Quốc) và Hàn Quốc từng mất 10-20 năm mới tích lũy được “kiến thức ngầm”, những kỹ năng chỉ có thể rèn qua trải nghiệm thực tế, để vươn lên nấc thang cao hơn.

Việt Nam cũng sẽ đi theo con đường đó, nhưng không thể nhảy vọt chỉ trong một sớm một chiều.

quote-5-web-min.png

Tôi đánh giá dịch vụ mở ra cơ hội để một quốc gia “nhảy cóc” trong quá trình phát triển, bởi thành công ở lĩnh vực này dựa phần lớn vào vốn con người.

Yếu tố then chốt là xây dựng môi trường khuyến khích đổi mới, nơi mọi người có thể khởi nghiệp trong điều kiện cạnh tranh công bằng. Khi hệ thống pháp lý đủ minh bạch và đáng tin cậy, doanh nghiệp mới có nền tảng vững chắc để khu vực dịch vụ bứt phá.

So sánh với các “con hổ châu Á” như Hàn Quốc, Singapore…và các nền kinh tế mới nổi như Thái Lan, Indonesia, theo ông Việt Nam có những lợi thế cạnh tranh lớn nào?

Trước hết, tôi cho rằng Việt Nam đã đi đúng hướng với những cải cách cốt lõi thời kỳ Đổi mới. Điển hình là việc mở cửa kinh tế hộ gia đình, một bước đi đặt nền móng cho môi trường kinh doanh ngày nay. Dù chưa thể coi là hoàn hảo, đây chính là nền tảng cho sự thịnh vượng.

Cùng với chính sách điều tiết ngân sách từ những đô thị giàu như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh về các tỉnh khó khăn hơn, Việt Nam đã duy trì được sự phát triển tương đối đồng đều. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa.

Đối với chặng đường tiếp theo, tôi cho rằng Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ Hàn Quốc và Nhật Bản. Mô hình doanh nghiệp của họ có sự khác biệt: Nhà nước không chọn ra một “quán quân” duy nhất mà tạo sân chơi cạnh tranh khốc liệt trong xuất khẩu.

quote-6-web-min.png

Nhờ cơ chế này, Nhật Bản và Hàn Quốc đã xây dựng được những thương hiệu toàn cầu trong ô tô, điện tử, phần mềm - từ Samsung đến các hãng điện tử danh tiếng khác. Ngược lại, ở những ngành họ nhận thấy không đủ năng lực cạnh tranh, như đóng tàu, họ sẽ lập tức chủ động thu hẹp.

Câu hỏi đặt ra cho Việt Nam là làm sao tạo ra những thương hiệu toàn cầu tương tự. Không thể đơn giản chỉ định một doanh nghiệp rồi rót tiền và hy vọng họ trở thành “ngôi sao”. Điều quan trọng không phải doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hay tư nhân, mà là tạo áp lực cạnh tranh thực sự - cả trong nước lẫn quốc tế. Đó mới là cách hình thành những “người thắng cuộc”.

Vậy Việt Nam cần khắc phục những hạn chế nào để không bị bỏ lại?

Việt Nam đang bước vào giai đoạn cải cách nhanh hiếm có. Luật pháp liên tục được điều chỉnh, tôi thấy đó là tín hiệu tuyệt vời. Đồng thời, theo tôi, Việt Nam cũng cần tham khảo các phương pháp mà các quốc gia phát triển đã làm để thu hẹp khoảng cách.

Hiện tại, tôi cho rằng đất nước đang có một số hạn chế đáng kể. Trước hết là quản lý liên bộ và chia sẻ dữ liệu hạn chế. Chuyển đổi số không thuộc riêng một Bộ nào mà sẽ đòi hỏi phối hợp liên ngành.

Về dữ liệu, ở các nước phát triển, khu vực tư nhân từ doanh nghiệp đến các tổ chức nghiên cứu phụ thuộc rất lớn vào dữ liệu kinh tế-xã hội, từ thông tin hộ gia đình đến hoạt động doanh nghiệp, để lập kế hoạch và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc xây dựng và cung cấp nguồn dữ liệu đầy đủ, đáng tin cậy cần được đẩy mạnh.

Thứ hai là định hướng về dịch vụ. Thời bao cấp, dịch vụ từng bị xem là “khu vực phi sản xuất”. Tư duy này đến nay vẫn còn. Việt Nam vẫn đặt trọng tâm quá nhiều vào sản xuất và xuất khẩu hàng hóa, trong khi dịch vụ mới là động lực quan trọng nhất để trở thành một nền kinh tế giàu có.

Tôi cũng cho rằng Việt Nam cần tập trung thu hút nhân tài quốc tế. Khi thiếu lao động tay nghề cao, người Việt thường nghĩ đến việc nâng cấp Đại học, đào tạo trong nước. Đó là điều tốt nhưng chưa đủ.

Việt Nam cần tính đến phương án “nhập khẩu lao động”. Thái Lan, Malaysia hay các nước giàu như Singapore, Nhật Bản đã mời rất nhiều chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực tài chính, dịch vụ hay Đại học. Thực tế, Thái Lan hiện có tới 30% giảng viên Đại học là người nước ngoài, trong đó có cả người Việt.

Theo tôi, giải quyết những “nút thắt” này sẽ giúp Việt Nam duy trì tốc độ cải cách và vươn lên mạnh mẽ trong giai đoạn phát triển tiếp theo.

Với những biến động toàn cầu hiện nay, ông đánh giá thế nào về khả năng Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong các năm tới?

Tôi đánh giá Việt Nam hoàn toàn có thể đạt tốc độ tăng trưởng 8%. Với những cải cách rõ ràng nhằm thúc đẩy tăng trưởng và làn sóng đầu tư mạnh mẽ, tôi tin Việt Nam hoàn toàn có thể làm được. Tôi dần cảm nhận được đất nước đã bắt đầu tập trung tham gia các Hiệp định thương mại và đầu tư khu vực.

quote-7-web-min.png

Tôi cũng cho rằng để bước từ nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp lên trung bình cao, Việt Nam cần chuyển từ tư thế bị động, chỉ phản ứng trước biến động sang thế chủ động hơn trong sân chơi kinh tế toàn cầu.

Theo quan điểm của ông, đâu là các yếu tố then chốt cần tập trung để hiện thực hóa mục tiêu này?

Tôi cho rằng điều quan trọng nhất là từng bước cải thiện môi trường kinh doanh.

Nghe có vẻ khô khan, nhưng còn hàng chục, thậm chí hàng trăm khâu Việt Nam có thể nâng cấp: Từ cơ chế giải quyết tranh chấp đến hệ thống trọng tài thương mại. Mục tiêu là giảm rủi ro cho doanh nghiệp, không chỉ cho nhà đầu tư nước ngoài mà cả doanh nghiệp trong nước.

Song song với đó, tôi nghĩ Việt Nam cần xây dựng hệ thống pháp lý và tòa án thương mại độc lập và minh bạch. Đây là thách thức lớn nhưng hoàn toàn khả thi. Nhiều quốc gia từng chuyển đổi nhanh chóng; ngay cả nước Anh thế kỷ 19 cũng từng rất yếu kém trước khi cải thiện.

Nếu làm tốt, Việt Nam có thể nhanh chóng tạo dựng một môi trường kinh doanh vững mạnh. Tuy nhiên, đây là công việc lâu dài, đòi hỏi kiên trì và sự cải thiện đồng bộ ở nhiều lĩnh vực chi tiết.

Ở tầm chiến lược, Việt Nam cũng có thể tham khảo Nhật Bản và Hàn Quốc. Để có những thương hiệu tầm cỡ như Toyota hay Daewoo, chúng ta phải hiểu cách họ nuôi dưỡng những “người khổng lồ”.

Tôi cũng khuyến nghị Chính phủ chủ động hơn trong hội nhập quốc tế. Hãy mạnh dạn đề xuất và thúc đẩy các sáng kiến trong ASEAN, ví dụ, việc di chuyển lao động hay thị thực chung đã được bàn bạc suốt 20 năm, cần được đẩy nhanh để sớm thành hiện thực. Việt Nam cần nhiều bước đi tiên phong như thế.

Trân trọng cảm ơn ông vì những chia sẻ quý báu!

Nội dung: Thùy Trang
Thiết kế: Nhật Vũ

Theo Kinh tế chứng khoán
https://dautu.kinhtechungkhoan.vn/kinh-te-truong-mekong-economics-me-pho-tra-da-va-hanh-trinh-gan-bo-hon-hai-thap-ky-hien-ke-giup-viet-nam-vuon-tam-1404878.html
Đừng bỏ lỡ
    Kinh tế trưởng Mekong Economics: Mê phở, trà đá và hành trình gắn bó hơn hai thập kỷ hiến kế giúp Việt Nam vươn tầm
    POWERED BY ONECMS & INTECH