Ngân sách giai đoạn 2021-2025: Cứ 3 đồng chi ra, 1 đồng sẽ dành cho đầu tư phát triển
Theo đó, chi đầu tư phát triển đạt khoảng 3,4 triệu tỷ đồng, chiếm 32–33% tổng chi ngân sách, cao hơn mục tiêu 28–29%.

Giai đoạn 2021–2025, thu ngân sách nhà nước ước đạt 9,6 triệu tỷ đồng, bằng 1,39 lần so với giai đoạn 2016–2020. Cơ cấu thu chuyển dịch theo hướng bền vững hơn, tỷ trọng thu nội địa tăng.
Cụ thể, chi ngân sách nhà nước ước khoảng 10,9 triệu tỷ đồng, vượt kế hoạch (10,26 triệu tỷ đồng). Trong đó, chi đầu tư phát triển đạt khoảng 3,4 triệu tỷ đồng, chiếm 32–33% tổng chi ngân sách, cao hơn mục tiêu 28–29%. Việc phân bổ vốn đã khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, khi số lượng dự án sử dụng ngân sách trung ương giảm còn khoảng 4.652 dự án, bằng 42% so với giai đoạn trước, trung bình vốn mỗi dự án đạt 300 tỷ đồng.
Chi thường xuyên ước khoảng 6,2 triệu tỷ đồng, chiếm dưới 60% tổng chi, dù trong giai đoạn này ngân sách phải đảm bảo tăng lương, phòng chống dịch COVID-19 và thực hiện nhiều chính sách xã hội lớn.
Bội chi ngân sách nhà nước duy trì ở mức 3,1–3,2% GDP, thấp hơn mục tiêu đề ra. Nợ công, nợ Chính phủ và nghĩa vụ trả nợ vẫn trong phạm vi Quốc hội cho phép, đảm bảo ổn định vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế.
Tính chung, Chính phủ đã hoàn thành và vượt 12/12 chỉ tiêu chủ yếu, tiếp tục hoàn thiện thể chế tài chính – ngân sách, phân cấp rõ ràng giữa trung ương và địa phương.
Đây cũng là những số liệu được đưa ra trong báo cáo về dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, kế hoạch đầu tư công, vay và trả nợ công năm 2026 và giai đoạn 5 năm giai đoạn 2026–2030 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV.
Tính đến hết 9 tháng năm 2025, thu ngân sách nhà nước ước đạt 96,7% dự toán, dự kiến cả năm khoảng 2.388,8 nghìn tỷ đồng, tăng 16,9% so với năm 2024 và vượt 21,5% kế hoạch được giao. Chính phủ phấn đấu tăng thu vượt 25% so với dự toán.
Chi ngân sách nhà nước 9 tháng đạt 63,1% dự toán, dự kiến hoàn thành kế hoạch cả năm, trong đó giải ngân 100% vốn đầu tư công. Chính phủ cũng đã bổ sung 116 nghìn tỷ đồng để thực hiện chính sách cho người nghỉ việc do sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí đủ 3% tổng chi ngân sách cho khoa học – công nghệ theo Nghị quyết 57-NQ/TW, và dành 10.000 tỷ đồng từ nguồn tăng thu để xây dựng trường nội trú vùng sâu, vùng xa.
Bội chi ngân sách năm 2025 dự kiến 3,6% GDP, thấp hơn mức 3,8% được Quốc hội phê duyệt.
Chính phủ dự kiến giai đoạn 2026–2030, thu ngân sách nhà nước đạt 16,1 triệu tỷ đồng, gấp 1,7 lần so với 5 năm trước, tương ứng tỷ lệ huy động khoảng 18% GDP.
Chi ngân sách nhà nước dự kiến 20,9 triệu tỷ đồng, gấp 1,9 lần giai đoạn 2021–2025. Trong đó:
- Chi đầu tư phát triển khoảng 8,51 triệu tỷ đồng, tương đương 40% tổng chi ngân sách, mức cao nhất trong nhiều năm;
- Chi thường xuyên khoảng 10,6 triệu tỷ đồng, chiếm 50,7% tổng chi, tập trung cho quốc phòng – an ninh, an sinh xã hội, tiền lương, phụ cấp và các nhiệm vụ chính trị trọng yếu.
Nguồn vốn ngân sách trung ương sẽ tập trung cho các dự án hạ tầng chiến lược, đường cao tốc, đường sắt tốc độ cao, các dự án liên vùng, liên quốc gia, cùng các dự án về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, khoa học – công nghệ. Tổng số dự án sử dụng vốn ngân sách trung ương không quá 3.000 dự án, bảo đảm đầu tư tập trung, trọng tâm, tránh dàn trải.
Bội chi ngân sách giai đoạn tới ước 5% GDP, tương đương gấp 3 lần giai đoạn 2021–2025 về số tuyệt đối, song vẫn trong giới hạn an toàn.
Theo kế hoạch, tổng mức vay của Chính phủ giai đoạn 2021–2025 ước khoảng 2,5 triệu tỷ đồng, đạt 81,5% kế hoạch, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp khoảng 1,79 triệu tỷ đồng. Đến cuối năm 2025, nợ công dự kiến khoảng 35–36% GDP, nợ Chính phủ 33–34% GDP, nghĩa vụ trả nợ chiếm 19–20% tổng thu ngân sách.
Bước sang giai đoạn 2026–2030, Chính phủ dự kiến huy động khoảng 6,55 triệu tỷ đồng, chủ yếu từ nguồn vay trong nước. Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ khoảng 3,53 triệu tỷ đồng, trong đó trả nợ trực tiếp 3,29 triệu tỷ đồng.
Dư nợ Chính phủ bảo lãnh cuối năm 2030 khoảng 390 nghìn tỷ đồng (2–3% GDP); nợ chính quyền địa phương khoảng 621 nghìn tỷ đồng, tương đương 3–4% GDP. Dự kiến nợ công đến cuối năm 2030 duy trì ở mức 41–42% GDP, nợ Chính phủ 38–39% GDP, nợ nước ngoài quốc gia 41–42% GDP, đều trong ngưỡng an toàn.
Tuy nhiên, Chính phủ cũng cảnh báo rủi ro khi nhu cầu huy động vốn tăng mạnh, trong khi thị trường trong nước có thể hạn chế khả năng hấp thụ, kèm theo rủi ro chi phí, thanh khoản và ổn định vĩ mô. Ngoài ra còn có rủi ro từ nghĩa vụ nợ dự phòng và rủi ro trong tổ chức thực hiện có thể ảnh hưởng đến an toàn tài chính quốc gia.
Để ứng phó, Chính phủ đề xuất đánh giá định kỳ hàng năm và giữa kỳ kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm, kịp thời điều chỉnh mục tiêu khi có biến động lớn; đồng thời, dành khoảng 15.000 tỷ đồng ngân sách trung ương năm 2026 làm nguồn dự phòng ứng phó biến động kinh tế – xã hội.
Tính đến hết tháng 9/2025, cả nước có 18 quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách do Trung ương quản lý, bao gồm các quỹ lớn như Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp, Bảo hiểm y tế, Quỹ Tích lũy trả nợ, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam….
Tổng số dư nguồn quỹ ước đạt 1.691,4 nghìn tỷ đồng (trong đó ba quỹ bảo hiểm chiếm 92% tổng số dư). Dự kiến đến cuối năm 2026, con số này đạt 1.781,3 nghìn tỷ đồng.
Chính phủ khẳng định sẽ tiếp tục rà soát, sắp xếp và giải thể các quỹ hoạt động không hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết 792/NQ-UBTVQH14, nhằm đảm bảo công khai, minh bạch và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính công.