TS Phạm Xuân Hòe: Nhiều gia đình rất khổ sở vì bán nhà xong rồi vẫn bị… treo nợ thuế
"Có rất nhiều gia gia đình đã bán nhà xong rồi, nộp thuế đầy đủ, nhưng đến giờ vẫn bị nợ thuế treo trên VNeID. Dữ liệu làm sạch kiểu gì vậy? Vô cùng buồn cười và khổ cho người dân,” TS. Hòe chia sẻ thẳng thắn.
Sáng 21/11, tại diễn đàn “Phát triển kinh tế số: Cơ hội và thách thức trong kỷ nguyên mới”, TS. Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, cho hay ngành ngân hàng Việt Nam đã đạt được những con số ấn tượng trong chuyển đổi số. 87% người dân trưởng thành hiện có tài khoản ngân hàng, và thu phí dịch vụ phi lãi suất của hệ thống ngân hàng đạt khoảng 20% tổng doanh thu, nhờ ứng dụng công nghệ số.
“Mục tiêu này theo chiến lược ngân hàng của chúng tôi ban đầu nghĩ là đến 2025 mới đạt được, nhưng giờ đã làm được nhờ công nghệ số thực sự hiệu quả,” ông Hòe nhấn mạnh.
Tuy nhiên, theo ông, thách thức lớn nhất hiện nay không phải công nghệ, mà là tư duy quản trị. Ông cho rằng từ lãnh đạo cấp cao đến quản lý trung gian đều cần có tư duy kỹ trị, đi sâu vào thiết kế quy trình, thay vì chỉ hô hào khẩu hiệu chung chung.
“Một ví dụ đơn giản: Có rất nhiều gia gia đình đã bán nhà xong rồi, nộp thuế đầy đủ, nhưng đến giờ vẫn bị nợ thuế treo trên VNeID. Dữ liệu làm sạch kiểu gì vậy? Vô cùng buồn cười và khổ cho người dân,” TS. Hòe chia sẻ thẳng thắn.

Ông giải thích, người thiết kế phần mềm phải hiểu quy trình, và dữ liệu, chính sách phải được số hóa một cách kỹ lưỡng để đảm bảo vận hành trơn tru. Đồng thời, việc kết nối giữa các bộ, ngành như thuế, địa chính, nhà đất hiện vẫn chưa đồng bộ, làm hạn chế hiệu quả chuyển đổi số.
TS. Hòe đặt câu hỏi về năng lực hạ tầng và năng lượng cho chuyển đổi số, đặc biệt khi ứng dụng AI và các trung tâm dữ liệu.
“Nếu đi theo mô hình Mỹ, cực kỳ tốn năng lượng. Việt Nam đã đủ năng lượng để triển khai trung tâm dữ liệu và AI nhiều chưa? Đây là vấn đề cần tính toán trong kiến trúc toàn bộ chuyển đổi số,” ông Hòe nhấn mạnh.
Một vấn đề khác được TS. Hòe lưu ý là bảo vệ thương hiệu doanh nghiệp nhỏ và vừa trên sàn TMĐT. Theo ông, phí đặt gian hàng quá cao hoặc bị chủ sàn thao túng có thể khiến doanh nghiệp mất thương hiệu, mất cơ hội kinh doanh.
“Trong Luật thương mại điện tử và các hướng dẫn phải quy định rõ ràng để doanh nghiệp Việt Nam mất ít tiền nhất nhưng vẫn bảo vệ thương hiệu,” ông kiến nghị.
TS. Hòe cho biết, thực tế hiện nay, dữ liệu ở Việt Nam vô cùng hỗn độn. Ngay cả ngành ngân hàng là một trong những ngành số hóa sớm nhất cùng với bưu chính viễn thông, cũng chưa có cơ sở dữ liệu thực sự “sạch”, đầy đủ và chuẩn hóa về thông tin hàng triệu khách hàng và nhu cầu của họ. Do đó, ông kiến nghị cần thiết lập một chương trình kết nối giữa các bộ, ngành để làm sạch và chuẩn hóa dữ liệu.
“Nếu không làm sạch dữ liệu, không liên thông các bộ ngành, đừng nói chuyện về kinh tế số. Dữ liệu là đầu vào quan trọng nhất,” ông nhấn mạnh.
Vấn đề cuối cùng được TS. Hòe đề cập là an ninh mạng và rủi ro trong kinh tế số, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Ông nhấn mạnh, khi người dân mở tài khoản, nếu không phải lỗi chủ quan của họ – tức không truy cập các mã độc hay thực hiện hành vi nguy hiểm, mà bị hacker lấy mất tiền, thì ngân hàng phải có trách nhiệm đền bù. Ngân hàng phải có vốn đủ để ứng phó với rủi ro vận hành IT, bởi đây là rủi ro lớn nhất trong hoạt động số hóa.
“Nếu ngân hàng không xử lý nhanh và rõ ràng, niềm tin của người dân vào kinh tế số và các mô hình số hóa sẽ bị hạn chế nghiêm trọng”, ông Hoè nhận định.
