Đây là gia tộc người dân tộc thiểu số duy nhất tại Việt Nam có đến ba đời ghi danh bảng vàng.
Kỳ tích nghìn năm có một
Dựa vào thông tin trong sách ‘Đăng Khoa lục’, gia đình ông Thân Nhân Trung (1418-1499) là người dây tộc Tày, quê ở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang có 3 đời liên tiếp với 4 người đỗ tiến sĩ. Đây cũng được xem là dòng họ người dân tộc thiểu số duy nhất trong suốt nghìn năm lịch sử Việt Nam có được vinh quang ấn tượng này.
Nói về gia cảnh, ông Thân Nhân Trung là con trai thứ hai của lương y Thân Thái Ất. Mỗi khi cha đi chữa bệnh xa nhà, hai mẹ còn thường ra đồng mò cua, bắt cá kiếm tiền sinh hoạt. Ông được người dân xung quanh nhận xét là người bắt cá giỏi (sát cá) với biệt danh là Cốc.
Mặc dù nghèo không có tiền đến lớp học nhưng Thân Nhân Trung vẫn không từ bỏ việc thu nạp kiến thức. Theo đó, khi một thầy đồ ở Hải Dương về mở lớp dạy học, Thân Nhân Trung đứng ngoài nghe lỏm. Ông lấy gậy chăn vịt viết chữ lên nền đất để luyện chữ và ghi nhớ. Với sự thông minh và nhanh nhạy vốn có, một thời gian sau, Thân Nhân Trung tinh thông kinh sử khiến nhiều người biết đến đều vô cùng ngưỡng mộ.
Vào năm 1469, triều đình mở khoa thi, mọi người chuẩn bị kĩ càng từ nghiên mực, quần áo lên đường. Còn Thân Nhân Trung, ông vẫn thản nhiên ở nhà làm việc, không mang việc đi thi. Thấy vậy, thầy đồ qua thăm hỏi, ông buồn bã nói về lý do không đi thi: “Nhà con nghèo, không có tiền lo việc đi thi thầy ơi”.
Hiểu được tình cảnh khó khăn của Thân Nhân Trung, thầy đồ đã hỗ trợ kinh phí thi và động viên hết mực. Được biết cái tên Thân Nhân Trung cũng do thầy đồ đặt cho ông. Nhờ tài trí hơn người nên Thân Nhân Trung đã đỗ tiến sĩ dù đã ngoài 50 tuổi, nhận được sự ngưỡng mộ của dòng họ và bà con làng xóm. Vào thời điểm đó, dưới sự trị vì của vua Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung nhanh chóng được tin dùng.
Trong suốt sự nghiệp làm quan, Thân Nhân Trung luôn yêu nước thương dân, ý thức trách nhiệm cao với dân, với nước: “Trị nước càng thịnh vượng lòng càng phải thận trọng, càng phải lo cho dân, chăm chỉ chính sự hàng ngày nơm nớp lo lắng”.
Năm Hồng Đức thứ 15 (1484) phụng mệnh vua trao, Thân Nhân Trung đã soạn bài văn bia "Đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442)”. Trong bài văn bia này, Thân Nhân Trung đã khéo vận dụng tri thức tiền nhân, đề cao nguyên khí quốc gia gắn với việc kén chọn và sử dụng nhân tài của các bậc đế vương và đưa ra chân lý bất hủ: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...”.
Ông từng đảm nhận rất nhiều chức vị danh giá: “Lại bộ Thượng thư, Chưởng Hàn lâm viện kiêm Đông các đại học sĩ, Nhập nội phụ chính, Tế tửu Quốc Tử giám (hiệu trưởng), Phó Đô Nguyên suý trong Tao Đàn Nhị thập bát tú”. Không chỉ thế, Thân Nhân Trung còn được vào hoàng cung dạy học cho các hoàng tử. Điều mà ai cũng ao ước được làm.
Con đỗ trước cha
Sau Thân Nhân Trung là hai người con trai: Thân Nhân Tín (đỗ tiến sĩ năm 1490) và Thân Nhân Vũ (đỗ tiến sĩ năm 1481). Đặc biệt người cháu đích tôn của ông – Thân Cảnh Vân đỗ rất cao trong khoa thi năm Đinh Mùi 1487.
Được sinh ra trong một gia đình có truyền thống thi thư, khoa cử. Ngay từ nhỏ, Thân Cảnh Vân phải rèn luyện theo khuôn mẫu Nho giáo. Năm 25 tuổi, ông dự khoa thi Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487) đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa).
Trong sách “Các nhà khoa bảng Việt Nam” có chép rằng: “Thân Cảnh Vân là cháu nội Thân Nhân Trung, con của Thân Nhân Tín, 25 tuổi đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487) đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Thị lang”.
Sau khi đậu đại khoa, Thân Cảnh Vân đã được triều đình ghi khắc tên, tuổi lên bia đá Quốc Tử Giám. Tính từ khoa thi tiến sĩ năm 1442 đến năm 1779 được khắc tên ở văn bia Quốc Tử Giám có cả thảy 59 vị Thám hoa, thì Thân Cảnh Vân đứng hàng thứ 9.
Như vậy, Thân Cảnh Vân đỗ cao hơn ông nội Thân Nhân Trung và chú ruột Thân Nhân Vũ của mình. Theo bậc vị khoa bảng thời phong kiến đỗ Đệ nhất giáp, hay còn gọi là Tam khôi gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa là cao nhất. Sau đó đến Hoàng giáp tức Đệ nhị tiến sĩ đồng xuất thân và tiếp đến là Đệ tam tiến sĩ đồng xuất thân.
Vào năm 1490, niên hiệu Hồng Đức 21, tại khoa thi Canh Tuất, con trai trưởng của Thân Nhân Trung và là bố của Thân Cảnh Vân tức Thân Nhân Tín cũng đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ đồng xuất thân.
Như vậy, 2 cha con họ Thân đã đỗ tiến sĩ chỉ cách nhau đúng một khoa giáp (3 năm). Điều thú vị ở đây là người con lại đỗ tiến sĩ trước người cha. Như vậy trong 21 năm (1469 - 1490), dòng họ Thân đã làm nên một kỳ tích khoa bảng xưa nay hiếm - khi cả cha - con, ông - cháu, chú - cháu cùng đỗ tiến sĩ.
>> Chuyện chưa kể về giai thoại 'lời sấm truyền' và dòng họ 5 đời đỗ tiến sĩ
Dòng họ có 2 cha con tiến sĩ làm quan to, cuối đời từ chức vì 'quá vinh hiển'
Bí ẩn giai thoại về 'làng tiến sĩ', 1 dòng họ có 18 người làm quan to