Không để rơi vào ‘bẫy’ FDI: Việt Nam học gì từ các nước Đông Á?
Dựa vào xuất khẩu và FDI từng giúp nhiều nước Đông Á cất cánh, nhưng họ tránh được sự lệ thuộc vào những nguồn lực bên ngoài này. Việt Nam có thể học hỏi để phát triển bền vững hơn.
Sáng 25/6, tại hội thảo công bố Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2025 do Trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức, các chuyên gia đã thảo luận sâu về định hướng công nghiệp hóa và vai trò của chính sách công nghiệp trong thúc đẩy khu vực tư nhân. Trong đó, vấn đề "phụ thuộc vào FDI và xuất khẩu" được xem là điểm nghẽn phát triển mà Việt Nam cần tránh.
Theo báo cáo, mặc dù xuất khẩu tiếp tục tăng mạnh trong những năm gần đây, nhưng tỷ trọng giá trị gia tăng nội địa vẫn thấp, phần lớn đến từ khu vực doanh nghiệp FDI. Đây cũng là tình trạng từng xảy ra tại một số quốc gia Đông Á trong giai đoạn đầu phát triển. Tuy nhiên, như TS. Nguyễn Quỳnh Trang nhấn mạnh, điều quan trọng là nhiều quốc gia Đông Á đã không rơi vào "bẫy phụ thuộc" nguồn lực bên ngoài như nhiều quốc gia khác.
Lý do là họ sớm xác định được lợi thế cạnh tranh động – những lợi thế có thể thay đổi theo thời gian – và từ đó, thiết kế chính sách công nghiệp để nâng cao năng lực doanh nghiệp nội địa, hỗ trợ xuất khẩu các mặt hàng chiến lược.
Lấy ví dụ Nhật Bản – quốc gia có lượng vốn FDI rất ít, TS. Trang cho rằng Tokyo vẫn đạt được năng lực sản xuất cao nhờ huy động nguồn vốn trong nước và từ doanh nghiệp nội địa, tăng cường năng lực cạnh tranh mà không bị lệ thuộc bên ngoài.
Trong khi đó, Trung Quốc đi theo chiến lược khác: thu hút nhiều FDI nhưng đi kèm với điều kiện chặt chẽ, nhằm bảo vệ sự phát triển của doanh nghiệp trong nước và giảm chi phí sản xuất nội địa thông qua hỗ trợ chính sách.
Dù có nhiều điểm tương đồng, TS. Trang cũng lưu ý: Việt Nam hiện đã hội nhập sâu, là thành viên WTO, ký kết nhiều FTA nên không thể áp dụng y nguyên chính sách công nghiệp như các quốc gia Đông Á thời kỳ trước.
![]() |
Phiên thảo luận tại Hội thảo công bố Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2025 do Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức sáng 25/6. (Ảnh: AM). |
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn có thể học cách giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh và tập trung phát triển các ngành có khả năng hấp thụ công nghệ cao, nhu cầu thị trường lớn – đặc biệt là những mặt hàng doanh nghiệp nội có thể tự làm chủ và mở rộng.
Giải pháp được TS. Nguyễn Quỳnh Trang đề xuất là hình thành cụm ngành theo lợi thế cạnh tranh, tạo mạng lưới doanh nghiệp hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ hạ tầng, tối ưu hóa sản xuất – từ đó giảm chi phí và nâng cao sức cạnh tranh.
Ngoài ra, ứng dụng công nghệ mới như AI, chuyển đổi số cũng cần được đẩy mạnh nhằm tiết giảm chi phí và cải thiện năng suất.
Bà Trang cũng cho rằng, Việt Nam nên tập trung phát triển những sản phẩm dễ hấp thụ công nghệ, có tiềm năng xuất khẩu lớn, ví dụ như chế biến nông sản, thực phẩm xanh, các sản phẩm dựa trên nền tảng chất lượng nhân lực và công nghệ hiện đại, để vừa đáp ứng xu hướng tiêu dùng toàn cầu, vừa tận dụng thế mạnh sẵn có.