Những nhà máy thủy điện đầu tiên của Việt Nam, vẫn hoạt động bền bỉ sau gần 100 năm
Ngày nay, những nhà máy thủy điện đi đầu này vẫn đang miệt mài sản xuất điện năng, âm thầm vận hành giữa những đổi thay của đất nước.
Theo các tài liệu lưu trữ của ngành Điện, cặp nhà máy thủy điện Tà Sa - Nà Ngàn, tọa lạc tại tỉnh Cao Bằng, được xây dựng vào khoảng những năm 1927-1928. Đây là một trong những công trình thủy điện ra đời sớm nhất ở Việt Nam, đánh dấu bước khởi đầu cho ngành công nghiệp điện lực của đất nước.
Công trình thủy điện bền bỉ qua hai cuộc chiến tranh
Cặp nhà máy Tà Sa - Nà Ngàn là chứng nhân lịch sử đấu tranh của nhân dân qua hai cuộc chiến tranh. Đây là công trình thủy điện được cho là cha đẻ của ngành điện lực Việt Nam.

Theo nghiên cứu của ông Thái Phụng Nê, Nguyên Bộ trưởng Bộ Năng lượng, hai nhà máy thủy điện Tà Sa và Nà Ngàn được xây dựng trong giai đoạn thực dân Pháp khai thác thuộc địa lần thứ hai.
Qua nhiều tài liệu ghi chép về lịch sử hình thành của các nhà máy thủy điện, vào khoảng những năm 1930, khi thực dân Pháp đẩy mạnh việc khai thác và vơ vét tài nguyên trên đất nước ta, họ đã cho xây dựng nhiều nhà máy, công xưởng, trong số đó có cặp thủy điện Tà Sa - Nà Ngàn.
Mục đích chính của người Pháp khi xây dựng hai nhà máy này là để cung cấp điện cho việc sơ chế quặng thô khai thác từ mỏ thiếc Tĩnh Túc, cách khu vực nhà máy khoảng 30km.

Khi người Pháp rút quân khỏi Việt Nam, nhà máy đã bị tàn phá nặng nề. Đến năm 1956, Liên Xô đã giúp chúng ta xây dựng lại nhà máy và khôi phục lại các tua bin phát điện. Chưa dừng lại ở đó, Năm 1979, chiến tranh biên giới nổ ra khiến Tà Sa - Nà Ngàn một lần nữa lại hoang tàn đổ nát bởi bom đạn quân xâm lược.
Dù hứng chịu nhiều vết thương chiến tranh, nhưng sau gần 100 năm, các tuabin tại hai nhà máy này vẫn hoạt động bền bỉ ngày đêm, sản lượng điện bình quân hàng tháng xấp xỉ 200.000kWh, phục vụ việc sản xuất công nghiệp tỉnh Cao Bằng.
Đối với cặp thủy điện Tà Sa - Nà Ngàn, tuy quy mô và sản lượng điện không quá lớn, nhưng giá trị lịch sử của chúng lại vô cùng đáng trân trọng và cần được bảo tồn. Như lời Nguyên Bộ trưởng Thái Phụng Nê từng chia sẻ: “Tiếp cận thận trọng, quan sát kỹ lưỡng và phải trung thành với lịch sử”. Đó cũng là cách chúng ta gìn giữ và tri ân những công trình ghi dấu bước đi đầu tiên của ngành điện nước nhà.
Công trình thủy điện mang phong cách châu Âu
Nếu Tà Sa - Nà Ngàn là chứng nhân lịch sử của hai cuộc chiến tranh khốc liệt của nhân dân thì Ankroet nổi bật với kiến trúc châu Âu giữa lòng cao nguyên.
Theo nhiều nguồn thông tin, Ankroet được khởi công xây dựng từ năm 1942 dưới thời Pháp thuộc. Nhằm phục vụ nhu cầu điện cho các công trình công cộng, biệt thự, khách sạn ở Đà Lạt.

Thủy điện nằm cách trung tâm Đà Lạt khoảng 12km về phía Tây Bắc, nằm cạnh dòng suối Ankroet, từ đó cái tên Ankroet đã gắn liền với công trình thủy điện này suốt gần một thế kỷ qua.
Khánh thành năm 1946, Ankroet đi vào hoạt động với công suất 600kW. So với những nhà máy thủy điện hiện nay thì công suất của Ankroet không lớn, nhưng đó là nguồn điện duy nhất đảm nhận nhiệm vụ cung cấp điện cho Đà Lạt và hòa vào mạng lưới điện quốc gia.
Không chỉ mang giá trị về mặt kỹ thuật, Ankroet còn nổi bật với kiến trúc phong cách châu Âu cổ điển, mang đậm dấu ấn của phong cách công nghiệp Pháp đầu thế kỷ XX.
Điều đặc biệt là nhà máy thủy điện này không được xây dựng từ bê tông cốt thép như hiện nay mà sử dụng hoàn toàn đá chẻ và liên kết mạch vữa. Đập tràn dài 97m, cao khoảng 10m cũng được xây bằng đá - một kết cấu hiếm có tại Việt Nam. Những bức tường đá rêu phong, mái ngói đỏ dốc, cửa sổ lớn kiểu biệt thự Pháp... khiến tổng thể công trình trông như biệt thự nghỉ dưỡng chứ không mang dáng dấp của một công xưởng.
Theo thiết kế ban đầu của người Pháp, đập - hồ Ankroet là đập tự tràn xây bằng đá chẻ, dung tích hồ chứa 1 triệu m3 nước. Cửa nhận nước và đường hầm xuyên núi dài 536m hình móng ngựa với đường kính 1,65m và có giếng thủy áp cuối đường hầm cao 44m (đường kính 4m). Đường ống thủy lực nối xuống nhà máy bằng thép dài 160m. Tại nhà máy lắp đặt 2 tổ máy, mỗi máy 300 kW, tuốc bin hiệu BELL, máy phát hiệu CEM-LEHAVRE do Mỹ sản xuất.
Một điều làm nên giá trị lịch sử to lớn của Ankroet là công trình đường hầm xuyên núi được thi công hoàn toàn thủ công, mất nhiều năm mới hoàn thành. Trong điều kiện thiếu thốn máy móc, người dân và công nhân phải sử dụng những dụng cụ thô sơ; mọi vật tư, thiết bị có thể tháo rời đều được tách nhỏ, rồi dựa vào sức người luồn rừng, lội suối, kéo và gùi từng phần vào công trường.
Đến nay, nhiều bộ phận máy móc hiện vẫn được bảo tồn nguyên trạng và còn hoạt động tốt sau hơn 80 năm. Đây được xem là minh chứng rõ ràng cho chất lượng công trình và trình độ kỹ thuật xây dựng lúc bấy giờ.

Ngoài ra, nhờ kiến trúc độc đáo và lịch sử lâu đời, Ankroet còn là một điểm đến du lịch lý tưởng cho những người thích khám phá và là điểm nghiên cứu tiềm năng cho những nhà nghiên cứu lịch sử và địa lý.
Từ nơi đây, nhiều thế hệ kỹ sư và công nhân Việt Nam đã được đào tạo, học hỏi để sau này góp mặt vào các công trình thủy điện trọng điểm như Thác Bà, Hòa Bình, Yaly, Sơn La…
Ngành Điện lực Việt Nam trong suốt gần một thế kỷ hình thành và phát triển đã trải qua nhiều khó khăn, thử thách để đạt được những thành tựu đáng tự hào như hôm nay. Tuy vậy, cũng cần ghi nhận rằng nhiều công trình thủy điện, nhiệt điện hiện nay được kế thừa từ nền móng mà người Pháp xây dựng đã có nhiều đóng góp nhất định cho sự phát triển của ngành.
Theo dòng chảy của thời gian, những công trình thủy điện đi đầu vẫn âm thầm vận hành giữa những đổi thay của đất nước. Dù quy mô không lớn so với những nhà máy hiện đại, hai công trình ấy vẫn mang trong mình giá trị lịch sử, kỹ thuật và văn hóa vô giá, là minh chứng sống động cho những bước đi đầu tiên của ngành Điện lực Việt Nam.
