Tinh gọn bộ máy và hiệu lực lãnh đạo trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Đến thời điểm hiện nay, quyết tâm “đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển” vào năm 2045 đã được Đảng và Nhà nước tuyên bố công khai, nhận được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi.
Xuân Ất Tỵ là thời khắc đánh dấu sự chuyển mình của đất nước, sự khởi đầu của năm mới với niềm tin, sự tự hào chưa bao giờ vị thế, uy tín và cơ đồ của dân tộc, của Đảng, của đất nước ta có được như ngày hôm nay trên trường quốc tế.
Năm mới 2025 với nhiều sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc, khởi đầu là những hoạt động có ý nghĩa thiết thực chào mừng 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2025).
95 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã trải qua kỷ nguyên độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930 - 1975); kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới (1975 - 2025); và bây giờ, sẵn sàng tâm thế bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với thời điểm bắt đầu là sự kiện trọng đại, Đại hội 14 của Đảng.
VietNamNet xin chia sẻ một số bài viết, ý kiến, góc nhìn nhân sự kiện lịch sử trọng đại 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiệu lực lãnh đạo
Như vậy, có thể nói, sứ mệnh chính trị cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hai thập kỷ sắp tới là quy tụ sự ủng hộ của mọi lực lượng xã hội cho tầm nhìn lãnh đạo 2045, phát huy mọi tiềm năng cũng như nguồn lực của đất nước, nỗ lực tư duy và hành động đúng đắn để đưa đất nước bứt phá, vươn tới vị thế quốc gia phát triển. Từ góc nhìn lãnh đạo, khát vọng Việt Nam 2045 cũng đang đặt ra nhu cầu phải bảo đảm hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới.
Ở bất cứ cấp độ nào, lãnh đạo cũng là quá trình tương tác hai chiều qua đó chủ thể lãnh đạo gây ảnh hưởng đến những người khác, cùng hành động để đạt được các mục tiêu chung, góp phần hiện thực hóa tầm nhìn lãnh đạo. Gắn với mỗi bối cảnh cụ thể, hoạt động lãnh đạo diễn ra trong các hệ thống lãnh đạo, bao gồm các chủ thể lãnh đạo, các lực lượng ủng hộ, hệ giá trị và chuẩn mực, tập hợp các khuôn mẫu hành vi và vai trò, nguyên tắc vận hành, quy trình ban hành và thực thi các quyết định lãnh đạo.
Như vậy, một hệ thống lãnh đạo sẽ cho thấy hiệu lực hoạt động khi vận hành thông suốt, đồng bộ, nhất quán. Nhờ đó, chủ thể lãnh đạo có thể truyền cảm hứng, tạo động lực, gắn kết các lực lượng, duy trì cam kết ủng hộ, và thực hiện được những mục tiêu chung, theo đuổi bởi cả hệ thống lãnh đạo.
Trên thực tế, quá trình thực hiện vai trò lãnh đạo sẽ phụ thuộc vào một điều kiện then chốt là quyền lực, tức là khả năng thực hiện được ý chí của chủ thể lãnh đạo, kể cả trong những tình huống xuất hiện sự không đồng thuận. Do đó, sự vận hành thông suốt của mô hình tổ chức quyền lực gắn với mỗi hệ thống lãnh đạo sẽ có ảnh hưởng quyết định đến hiệu lực lãnh đạo.
Ở nước ta, sau gần 40 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, bối cảnh hiện nay và những mục tiêu lãnh đạo trong thời kỳ mới cũng đang đặt ra nhu cầu cải thiện hiệu lực lãnh đạo của Đảng.
Báo cáo về công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng tại Đại hội 13 nhận định: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao… Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời. Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi”.
Gần đây, trong bài viết “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới”, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã chỉ ra: “Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định, dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng”. Cũng vì thế, để gia tăng khả năng thành công với tầm nhìn lãnh đạo 2045, một trong những vấn đề căn cốt nhất là phải cải thiện và bảo đảm hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới.
Tinh gọn tổ chức bộ máy
Trong xã hội hiện đại và trên bình diện quốc gia, hiệu lực lãnh đạo của mỗi Đảng chính trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nền tảng tư tưởng, chủ trương chính trị, quan điểm chính sách, uy tín và ảnh hưởng của cá nhân các nhà lãnh đạo, và đặc biệt là tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Ở nước ta, hệ thống chính trị - nơi đề ra các chủ trương lãnh đạo, hoạch định và thực thi chính sách - bao gồm các khối Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội.
Từ cuối tháng 11 năm 2024, cả hệ thống chính trị nước ta đã quyết liệt triển khai tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 12 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Những điều chỉnh, thay đổi mạnh mẽ, có tính cách mạng về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hướng đến đáp ứng các tiêu chí “tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”.
Nhờ đó, hệ thống chính trị được kỳ vọng sẽ cải thiện rõ rệt về chất lượng hoạt động. Tuy nhiên, để có thể cải thiện hiệu lực lãnh đạo ở mọi cấp độ quản trị cộng đồng, một vấn đề cần quan tâm trong quá trình hiện đại hóa tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là phải bảo đảm các nguyên tắc căn cốt của mô hình tổ chức quyền lực.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay đặc trưng bởi nguyên tắc “tập trung và thống nhất” về quyền lực. Nguyên tắc nền tảng cho sự vận hành của hệ thống chính trị ở nước ta là “tập trung dân chủ”, với một số yêu cầu then chốt như: thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, tập thể lãnh đạo...
Cụ thể hơn, đặc trưng “tập trung và thống nhất” của mô hình tổ chức quyền lực chính trị ở nước ta trước hết thể hiện ở vị trí và vai trò hạt nhân quyền lực trong hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo đó, Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị đồng thời cũng lãnh đạo hệ thống chính trị, tức là Đảng đảm nhiệm cả hai vai trò: Lãnh đạo và cầm quyền. Vai trò lãnh đạo của Đảng là “tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện, bao trùm mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…”. Quyền lực Nhà nước cũng được phân chia theo chiều ngang (Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp) và chiều dọc (Trung ương, địa phương). Các chủ thể quyền lực Nhà nước phải hợp tác và phối hợp với nhau.
Những bài học thành công về phát triển đột phá trong thời gian ngắn của một số quốc gia trong khu vực Đông Á từ nửa sau thế kỷ 20 như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc gợi ra tầm quan trọng của việc bảo đảm sự thống nhất quyền lực. Bởi lẽ, khi các mục tiêu phát triển quốc gia được ưu tiên thì hệ thống quyền lực tập trung và thống nhất sẽ ưu trội hơn so với các hệ thống quyền lực phân tán về khả năng kiến tạo tổng lực sức mạnh, hướng đến mục tiêu chung.
Như vậy, trong tiến trình hiện đại hóa hệ thống tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, chúng ta có thể giảm bớt mức độ tập trung quyền lực để gia tăng sự chủ động, năng động, và linh hoạt của cả hệ thống chính trị, nhưng duy trì sự thống nhất quyền lực sẽ trở thành một điều kiện tiên quyết cho khả năng bứt phá với các mục tiêu phát triển quốc gia.
Bảo đảm sự thống nhất quyền lực
Những phân tích về đặc trưng của mô hình tổ chức quyền lực chính trị ở nước ta gợi ra rằng, bảo đảm sự thống nhất về quyền lực sẽ là yếu tố then chốt để có thể giúp Đảng gia tăng hiệu lực lãnh đạo. Tuy nhiên, theo tinh thần của cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay, chúng ta cũng cần nhận thức rằng bảo đảm sự thống nhất quyền lực không có nghĩa là lẫn lộn giữa quyền lực chính trị với quyền lực công, duy trì tình trạng “song trùng hình thức”, “chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ”, “bao biện làm thay”, cơ quan Đảng “lấn sân” cơ quan Nhà nước, chính quyền trung ương can thiệp quá sâu vào phạm vi công việc của các chính quyền địa phương, hay chính quyền địa phương ỷ lại chính quyền trung ương.
Thay vào đó, bảo đảm sự thống nhất quyền lực ở nước ta có nghĩa là phải thực hiện tốt hơn nữa cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Cụ thể hơn, bảo đảm sự thống nhất quyền lực tức là bảo đảm ý chí chính trị, chủ trương và đường lối lãnh đạo của hạt nhân quyền lực (Đảng Cộng sản Việt Nam) được triển khai thông suốt và nhất quán ở mọi lĩnh vực, mọi cấp độ quản trị. Các chính sách của chính quyền trung ương được thực hiện nghiêm túc trên phạm vi quốc gia, và chính sách của các chính quyền địa phương cần phải nhất quán với các định hướng chính sách vĩ mô được hoạch định bởi trung ương.
Trong bối cảnh đó, trước hết, cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nhằm đáp ứng các tiêu chí quản trị hiện đại. Ưu tiên hàng đầu là cần xem xét phân định ranh giới rõ ràng hơn giữa quyền lực chính trị (của Đảng) và quyền lực công (của Nhà nước), nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự tôn trọng vai trò và chức năng quản lý của các cơ quan Nhà nước.
Tiếp đến, cần xây dựng chiến lược tổng thể quốc gia về phân cấp, phân quyền với kế hoạch và lộ trình cụ thể. Trong đó, cần xác định những lĩnh vực sẽ đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền trung ương nhằm bảo đảm sự ổn định chính trị và lợi ích quốc gia. Với các cấp chính quyền địa phương, cần tiếp tục nghiên cứu để trao quyền chủ động hơn nữa đối với những lĩnh vực đời sống dân sinh xã hội hàng ngày. Đồng thời, tiến hành rà soát, hiệu đính, và bổ sung quy định, thể chế để bảo đảm sự rõ ràng, chính xác về khái niệm và cách hiểu nhằm giảm thiểu sự vận dụng tùy tiện các quy định, dễ dẫn đến sự can thiệp thái quá của cơ quan Đảng với cơ quan Nhà nước, của chính quyền trung ương vào các hoạt động của địa phương, hoặc sự ỷ lại của địa phương vào trung ương.
Kiểm tra, giám sát là hoạt động đặc biệt quan trọng nhằm bảo đảm sự thống nhất quyền lực. Tuy nhiên, thay vì chỉ chú trọng công tác kiểm tra, giám sát theo chiều dọc trong nội bộ mỗi cơ quan thuộc hệ thống chính trị, chúng ta cần tính đến các phản ứng theo chiều ngang. Tức là việc kiểm tra, giám sát có thể tiến hành chéo giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương, với thành phần tham gia hoạt động kiểm tra, giám sát đa dạng nhằm giảm thiểu nguy cơ “đóng cửa bảo nhau”. Đồng thời, để gia tăng tính khách quan và giảm thiểu tính hình thức trong hoạt động kiểm tra, giám sát thì cần tính đến mô hình tổ chức theo cụm cơ quan, ngành, và địa phương.
Bên cạnh đó, trong xã hội hiện đại, các phản ứng từ phía xã hội ngày càng trở nên quan trọng và là một phương tiện hữu hiệu để có thể sớm phát hiện biểu hiện lạm quyền. Vì thế, cần kiến tạo các điều kiện thể chế để chủ thể ngoài Nhà nước có thể thực sự tham gia vào hoạt động kiểm tra, giám sát. Quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước phải khiến cho những hoạt động của hệ thống chính trị đều diễn ra công khai, minh bạch, nhờ đó bị đặt dưới sự giám sát của mọi chủ thể, không chỉ từ bên trong mà cả từ bên ngoài hệ thống chính trị.
>>Bộ trưởng Nội vụ kể về những cuộc họp cân não tinh gọn bộ máy
Bộ trưởng Nội vụ kể về những cuộc họp cân não tinh gọn bộ máy
Trung ương thông qua phương án tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị