2 vị quân sư nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, được ca ngợi tài năng sánh ngang Gia Cát Lượng, Khương Tử Nha
Đất nước Việt Nam chúng ta có 2 vị quân sự anh minh, kiệt xuất không thua kém gì với Gia Cát Lượng, Khương Tử Nha.
1. Nguyễn Trãi - Đền nợ nước, báo thù nhà
Xuất thân từ gia đình tri thức
Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, quê ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương sau đó chuyển đến làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông (cũ). Ông là con thứ trong một gia đình vốn truyền thống Đồ gia tri thức, cha là Nguyễn Phi Khanh, mẹ là Trần Thị Thái – con gái của Trần Nguyên Đán, một quý tộc thời Trần. Mẹ ông mất sớm, Nguyễn Trãi phải sống nương nhờ ông ngoại nhưng đến năm 1390, Trần Nguyên Đán cũng qua đời, Nguyễn Phi Khanh phải vất vả một mình nuôi các con ăn học.
Duyên nợ với non sông
Từ bé, Nguyễn Trãi luôn mê học và được Nguyễn Phi Khanh dạy dỗ khuôn khổ Nho giáo Khổng Mạnh. Ông nhanh chóng nắm bắt kiến thức và với ý chí học hành ông đã trở thành người tài cùng nhiều kiến thức bác học, uyên thâm.
Vào năm 1400, khi triều Hồ tổ chức khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi đã đỗ Thái Học sinh và sau đó phục vụ triều đình cùng cha mình. Tuy nhiên, vào năm 1407, quân Minh từ Trung Quốc xâm lược Việt Nam, triều Hồ kháng chiến thất bạt, Hồ Quý Ly cùng nhiều quan lại bị bắt và đưa về Trung Quốc, trong số đó có cha của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi đi theo khóc đến tận của Nam Quang vẫn không chịu về, cha ông nói rằng: “Con phải trở về tìm cách cứu cha, rửa thù cho nước nhà chứ đi theo khóc lóc làm gì“.
Nghe theo tâm nguyện của cha, Nguyễn Trãi trở về nuôi chí báo thù cho đất nước đang bị áp bức thống trị bởi nhà Minh.
Phan Huy Chú ghi chép về Nguyễn Trãi trong Lịch triều hiến chương loại chí như sau: Sau khi ra hàng nhà Minh, vua Minh là Truơng Phụ muốn trọng người tài bèn dụ dỗ ông nhưng Nguyễn Trãi từ chối nên suýt nữa bị chém đầu. Ông may mắn thoát chết vì được Thượng thư Hoàng Phú mến tiếc tài năng. Nhưng sau đó, ông bị giam lỏng tại Đông Quan. Lòng hận nhà Minh thâm độc, muốn tìm vị chân Chúa để thờ nhưng chưa biết tìm ở đâu, ông bèn trốn đi. Trong một đêm trú tại quán Trấn Vũ, được Thần báo mộng cho tên họ Lê Thái Tổ, ông lòng vui mừng bèn vào yết kiến Bình Định Vương ở Lỗi Giang xin được góp sức tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Kể từ ấy duyên nợ dân tộc của ông khởi sắc vẹn toàn sau một thập kỷ mong mỏi cháy lòng.
Quân sư trong đại thắng Lam Sơn
Khi gặp Lê Lợi, Nguyễn Trãi dâng cho vị thủ lĩnh quân khởi nghĩa "Bình Ngô sách", đề xuất ba kế để đối phó với quân Minh, chủ trương dùng “tâm công” tức đánh vào lòng người để đi đến chiến thắng. Sau khi xem “Bình Ngô sách”, Lê Lợi đã ban cho Nguyễn Trãi chức Tuyên phong đại phu - Thừa chỉ Hàn Lâm viện, ngày đêm dự bàn việc quân, trù hoạch mưu lược, viết thư thảo hịch.
Vào năm 1423, Bình Định Vương gửi Lê Vận và Lê Trăn cử làm xứ giả, mang theo năm đôi ngà voi và một bức thư do Nguyễn Trãi viết đi cầu hòa. Lời lẽ trong thư rất mềm mỏng, khôn khéo khiến tổng binh nhà Minh là Trần Trí đồng ý ngay lập tức. Từ đó, Nguyễn Trãi đã phụ trách việc soạn thảo mọi văn thư giữa nghĩa quân Lam Sơn và quân Minh.
Tranh thủ thời gian hòa hoãn, Lê Lợi đã rút quân về Lam Sơn và củng cố lượng. Năm 1424, nhận ra không thể thu phục Lam Sơn đầu hàng, nhà Minh đã bắt giữ sứ thần Lê Trăn, tuyệt giao với Lê Lợi và đẩy cuộc khởi nghĩa vào một giai đoạn mới. Sau đó nghĩa quân Lam Sơn liên tiếp giành thắng lợi tại Tân Bình, Thuân Hóa, Nghệ An, quân Minh chỉ còn cố thủ chờ cứu viện.
Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng như dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh ở các thành trì khác. Với lời lẽ sắc bén mà hợp tình nghĩa lý, ông đã thành công trong việc dụ tướng Việt quay đầu lại với chính gia. Sách lược đúng đắn Nguyễn Trãi cũng đã làm tan vỡ thế trận 10 vạn quân Minh khi sang cứu viện. Nghĩa quân Lam sơn đại thắng, lấy lại thành Đông Quan, giành lại độc lập từ quân Minh, nhà Lê được thành lập từ đó.
Để bố cáo với cả nước về chiến thắng quân Minh, vua Lê giao cho Nguyễn Trãi viết lên Bình ngô đại cáo - đây được coi là bài “Tuyên ngôn độc lập” thứ 2 của nước Việt Nam ta. Nguyễn Trãi sau đó tâm huyết phục sự triều Lê rồi xin về ở ẩn tại quê hương Chí Linh.
Trở về với cội nguồn
Về với quê hương Chí Linh, ông sống một cuộc đời thanh tịnh của kẻ Nho gia gắn cùng nguồn cội tư tưởng của Phật và Đạo. Nguyễn Trãi cũng để lại nhiều áng thơ ca được người đời ngợi ca qua bao năm tháng.
Nhưng những năm tháng tưởng chừng yên bình thì gia đình ông lại bị oan với vụ án Lệ Chi Viên thảm khốc, gia đình ông bị chu di tam tộc. Con người trung nghĩa ấy đã phải chôn mình trong cát bụi vì bị khép tội giết vua trong một lần Lê Thái Tông về miền đông đi tuần năm 1442. Mãi tới 22 năm sau, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu giải oan cho ông, bãi bỏ lệnh truy sát và ra lệnh bổ dụng con cháu ông quay về phục sự đất nước.
2. Đào Duy Từ - Mưu thần lỗi lạc của Chúa Nguyễn
Vào thời kỳ hưng thịnh triều đại Chúa Nguyễn, Đào Duy Từ (1572-1634) được ví là một bộ óc vĩ đại xuất thân từ tầng lớp bình dân Thanh Hóa.
Khó khăn không lạc anh tài
Từ khi còn nhỏ, Đào Duy Từ đã thể hiện sự thông minh và nhanh nhạy hơn hẳn mọi người. Ở tuổi 21, ông đỗ giải Á nguyên trong kì thi Hương năm 1593 dưới triều vua Lê Thế Tông. Trong kỳ thi hội sau đó, bài thi của Duy Từ nhận được nhiều lời khen từ giám khảo. Tuy nhiên, sau thành tích này, ông bị buộc phải từ bỏ danh hiệu Á nguyên vì có người tố cáo rằng ông thuộc gia đình phường chèo - một nghề thường bị coi thường vào thời điểm đó. Mẹ ông là bà Vũ Thị Kim Chi do quá đau lòng đã tự tử, khiến Đào Duy Từ chìm vào tuyệt vọng và bệnh nặng.
Vận mệnh thay đổi
Cuộc sống của Đào Duy Từ biến chuyển khi ông tình cờ gặp Nguyễn Hoàng. Đọc thơ văn của Duy Từ, Nguyễn Hoàng nhận ra đấy là một thiên tài và âm thầm giúp đỡ mặt tài chính để Duy Từ chữa bệnh rồi mời ông vào Nam giúp mình. Khỏi bệnh, Duy Từ đồng ý lời mời và rời quê hương vào Đàng Trong lập nghiệp.
Vào Nam, ban đầu ông chăn trâu cho một phú ông tên Trần Đức Hòa ở Tùng Châu - một người thân thiết Nguyễn Phúc Nguyên, con trai Nguyễn Hoàng. Duy Từ sử dụng thời gian này để hiểu rõ hơn về tình hình đất nước và xây dựng dự định cho tương lai.
Nhận ra tài năng và tri thức của Duy Từ, phú ông Trần Đức Hòa quyết định giữ ông lại và gả với con gái mình cho. Khi đọc bài "Ngọa Long cương" của Đào Duy Từ, ông đã ca ngợi: “Đào Duy Từ có phải là Ngọa Long của thời đại hiện tại không?"
Một hôm, Trần Đức Hòa đêm bài này cho Nguyễn Phúc Nguyên, vị chúa Nguyễn nhận ra hiền tài liên lập tức mời Đào Duy Từ vào cung. Ngưỡng mộ trí tuệ và kiến thức của Duy Từ, Chúa đã ban cho ông làm Nha úy nội tán, chịu trách nhiệm cho các công việc quân sự và chính trị. Duy Từ trở thành cận thần và cố vấn đắc lực cho Chúa. Chúa Nguyễn thường nói với mọi người: Đào Duy Từ thật là Tử Phòng và Khổng Minh ngày nay.
Công lao mãi được ghi nhớ
Nhờ có Đào Duy Từ bên cạnh, chúa Nguyễn đã giành chiến thắng trong cả hai cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn – cuộc chiến Đàng Trong và Đàng Ngoài (1627 và 1630). Vào năm 1631, nghe theo lời Đào Duy Từ chúa Nguyễn đã cho xây dựng một hào lũy kiên cố, kéo dài 18 km từ núi Đâu Mâu qua cửa biển Nhật Lệ và tiếp tục về phía đông bắc đến làng Đông Hải. Với sự hỗ trợ của hai hào lũy này, chúa Nguyễn đã cản được quân Trịnh trong bảy lần xâm nhập, bao gồm hai lần vào năm 1627 và 1630 và năm lần khác sau khi Đào Duy Từ qua đời.
Đào Duy Từ là một tên tuổi quân sự được ngợi khen qua các thế hệ, với những đóng góp quan trọng góp phần xây dựng nền tảng vững chắc cho triều đại Nguyễn kéo dài qua 9 chúa và 13 vị vua. Ông không chỉ giỏi về chiến thuật mà còn sâu sắc trong triết lý sống, áp dụng vào chiến lược và tư duy riêng: "Mưu phạt tâm công".