Đời sống

80 năm Độc lập - Chương I: Từ bến Nhà Rồng đến Ba Đình lịch sử

TPO 19/08/2025 - 20:09

Mùa thu 1945, bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ vang lên trên Quảng trường Ba Đình, dân tộc Việt Nam chính thức bước vào kỷ nguyên độc lập. Trải qua bao gian nan, thử thách, bằng ý chí, nghị lực và khát vọng, dân tộc Việt Nam không chỉ bảo vệ vững chắc nền độc lập trong 80 năm qua, mà còn đang viết tiếp tương lai kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hùng cường của dân tộc.

c1-s2.png

Với mỗi người dân Việt Nam, ngày 2/9/1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó không chỉ là mốc thời gian đánh dấu sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn là bước ngoặt lịch sử đưa dân tộc thoát khỏi thân phận thuộc địa gần một thế kỷ, tiến vào kỷ nguyên của tự chủ, tự quyết và làm chủ vận mệnh dân tộc mình.

Nhưng để có được ngày độc lập ấy, dân tộc Việt Nam đã trải qua một hành trình đầy gian truân, khởi đầu từ hành trình tìm đường cứu nước xuyên ba châu lục của chàng thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành...

images1949896-t4-1-2352.jpg

Bến Nhà Rồng nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước

Đó là ngày 5/6/1911, trên con tàu Amiral Latouche Tréville, chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng, mang trong tim khát vọng “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Người xác định mục tiêu rõ ràng là tìm con đường đấu tranh đúng đắn để giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào mình.

Theo PGS.TS Bùi Đình Phong, giảng viên cao cấp Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước với hành trang là tấm lòng yêu nước, thương dân và hoài bão cứu nước, cứu dân. Người quyết định “Tây du” chứ không phải “Đông du” vì “Muốn đánh Pháp thì phải hiểu Pháp”.

c1-q-pgs-phong.png

Theo PGS. TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện lịch sử Đảng, hành trình Bác đi là tìm một con đường tranh đấu chứ không đi cầu ngoại viện, không tìm sự giúp đỡ của nước ngoài, “tìm đường đi cho dân tộc theo đi”. Người nêu cao ý chí khát vọng độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào mình, tự lực, tự cường, tin vào sức mạnh của toàn dân, chứ không phải lực lượng của một hai người, một nhóm người...

pgsts-nguyen-trong-phuc-ha-noi-l-1105.jpg

PGS. TS Nguyễn Trọng Phúc.

Trên hành trình tìm đường cứu nước, Bác đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục, đi qua 30 nước trên thế giới, và đến đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và thấy ở đấy con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Năm 1930, người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - một Đảng cách mạng chân chính để tập hợp quần chúng quyết “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”…

Theo PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện lịch sử Đảng, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sự kiện lịch sử , một bước ngoặt trong phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân dân Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Từ đây, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã có một chính đảng tiên phong của giai cấp công nhân đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin lãnh đạo.

80-nam-ngay-bac-ho-ve-nuoc-lanh.jpg

Năm 1941, Bác Hồ về nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam

Mùa xuân năm 1941, sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. “Khi phong trào cách mạng nghe tin Bác trở về nước lập tức phát triển mạnh. Nhân dân đoàn kết, quyết tâm đi theo Đảng, theo Bác, theo sự nghiệp cách mạng”, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc cho hay.

Sau khi về nước, Bác đã triệu tập và tổ chức Hội nghị Trung ương 8 khóa I. Hội nghị đã xác lập tư tưởng chỉ đạo mang tính bước ngoặt: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Khẩu hiệu khi đó đề ra là: Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết. Nghị quyết Trung ương 8 khóa I nêu rõ: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

vo-nguyen-giap-vietminh-forces.jpg

Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) thành lập ngày 22-12-1944.

Cùng với đó, Hội nghị cũng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt Minh và sẽ làm cờ Tổ quốc. Mặt trận Việt Minh ra đời với Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ cụ thể, nêu rõ những chính sách cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, ngoại giao và các chính sách cụ thể đối với các tầng lớp nhân dân nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, “cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước là: Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”.

Từ những bước chuẩn bị chiến lược trên, dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng cho thời khắc vĩ đại nhất của thế kỷ XX - cuộc Tổng khởi nghĩa mùa Thu năm 1945, giành lại chính quyền về tay nhân dân, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.

c1-s1.png

Ngày 2/9/1945, Hà Nội được vinh dự thay mặt các địa phương trong cả nước, tổ chức ngày lễ độc lập để Chính phủ lâm thời ra mắt đồng bào; đồng thời nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập thể chế dân chủ cộng hòa.

Từ sáng sớm, cả Hà Nội bừng lên trong màu cờ đỏ sao vàng và đèn, hoa rực rỡ. Những biểu ngữ lớn bằng chữ Việt, Pháp, Nga, Anh, Trung Quốc chăng khắp các đường phố: "Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “Độc lập hay là chết", "Ủng hộ Chính phủ lâm thời", "Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”...

Từ giữa trưa, nhân dân thành phố và các vùng lân cận đã cuồn cuộn đổ về quảng trường Ba Đình, nơi dựng lễ đài Độc lập; tràn ngập các phố chung quanh. Đúng 14 giờ, các thành viên của Chính phủ lâm thời bước lên lễ đài". Bài Tiến quân ca vàng lên hùng tráng, lá cờ đỏ sao vàng được từ từ kéo lên. Một rừng cánh tay to lớn chào, bàn tay nắm lại.

Trong không khí trang nghiêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, tuyên bố với toàn thể nhân dân, với thế giới nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập, tự do ra đời.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trong đó, Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

c1-p1.jpg

GS. Lê Thi - một trong hai người phụ nữ có vinh dự kéo cờ Tổ quốc trong Ngày Độc lập - khi còn sống từng chia sẻ: “Khi bài Quốc ca vang lên cũng là lúc lá cờ Tổ quốc được từ từ kéo lên, khi bài Quốc ca vừa kết thúc là lúc lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trên lễ đài, trong tiếng vỗ tay vang rền của hàng vạn người dân có mặt tại Quảng trường Ba Đình… Đó cũng là lúc chúng tôi thở phào nhẹ nhõm, vui sướng, nước mắt bỗng ứa ra vì xúc động xen lẫn tự hào. Trên lễ đài, tôi được nhìn thấy Bác Hồ rõ hơn trong bộ ka-ki giản dị, khác hẳn với những vị lãnh tụ mà tôi đã được học trong sách vở”.

image-303.jpg

GS. Lê Thi, một trong hai người kéo cờ trong Ngày độc lập năm 1945

Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của Đảng, qua tư liệu trong nước và quốc tế, qua lời kể của người thân, PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện lịch sử Đảng cảm nhận rất rõ khí thế hào hùng của dân tộc trong những ngày tháng Tám mùa thu lịch sử năm 1945.

Trong đợt Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám, bố đẻ của PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà cũng là người trực tiếp tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Đồ Sơn, Hải Phòng. “Không khí thời điểm đó rất sôi sục, nghe theo tiếng gọi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người dân cả nước thấy rằng thời cơ giành độc lập đã tới, và mọi người truyền tai nhau: “Đi thôi!”. Thời điểm đó, người dân náo nức xuống đường giành chính quyền, ai cũng muốn được trở thành người cách mạng”, ông Hà nói.

Cách mạng tháng Tám thành công đã giành độc lập cho dân tộc

Cách mạng tháng Tám thành công đã giành độc lập cho dân tộc

Theo ông, trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn phải chống xâm lược, chống ngoại bang nên khát vọng độc lập ăn sâu vào máu thịt mỗi người. Vì vậy, tinh thần yêu nước của người dân Việt Nam rất mãnh liệt. Đặc biệt, từ khi Đảng ra đời, với đường lối giải phóng dân tộc, giành độc lập, mang lại tự do cho nhân dân đã chạm vào khát vọng ngàn đời của dân tộc. Nhân dân nhận ra đây là tổ chức có thể hiện thực hóa khát vọng độc lập của đất nước nên tự giác đi theo.

“Đó là sự lựa chọn tự thân, từ lòng yêu nước, từ khao khát đổi đời. Chính vì vậy, thời điểm năm 1945, cả nước chỉ có khoảng 5.000 đảng viên hoạt động bí mật, nhưng đã vận động, lãnh đạo hàng triệu người dân cả nước đứng lên khởi nghĩa giành độc lập. Điều đó cho thấy, Nhân dân đặt trọn niềm tin vào Đảng, vào Chủ tịch Hồ Chí Minh”, nguyên Viện trưởng Viện lịch sử Đảng phân tích.

c1-q-pgs-ha.png

Theo PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà, Bản Tuyên ngôn Độc lập được Bác đọc trên Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2/9/1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó không chỉ là mốc thời gian đánh dấu sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn là bước ngoặt lịch sử đưa dân tộc thoát khỏi thân phận thuộc địa gần một thế kỷ để làm chủ vận mệnh dân tộc mình.

c1-s3.png

Điều PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà tâm đắc và cũng là điều hết sức đặc biệt trong bản Tuyên ngôn Độc lập, đó là việc Bác Hồ dẫn lại hai bản tuyên ngôn nổi tiếng: Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, khẳng định những quyền cơ bản: “Quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” là quyền trời cho, không ai có thể tước đoạt.

Ở đó, Bác vừa khẳng định quyền con người, vừa nâng tầm thành quyền dân tộc. Và sâu xa hơn, Bác như muốn gửi đến các cường quốc, đặc biệt là Mỹ và Pháp, một thông điệp rõ ràng: Nếu cha ông các ông từng viết ra những bản tuyên ngôn ấy, thì hôm nay, các ông không có lý do gì để chối bỏ quyền Độc lập, Tự do, Hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.

Trong phần cuối của bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Theo ông Hà, câu nói ấy chính là lời thề thiêng liêng của cả một dân tộc trước bạn bè quốc tế và trước lịch sử. Đó không chỉ là một tuyên bố mang tính pháp lý mà còn là một thông điệp mạnh mẽ, đanh thép gửi đến tất cả những thế lực từng hoặc có ý định xâm lược Việt Nam: Chúng tôi rất yêu quý nền độc lập này, và chúng tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả - kể cả tính mạng - để bảo vệ nó.

Thủ đô Hà Nội ngày ấy mỗi ngôi nhà là một pháo đài, mỗi đường phố là một chiến tuyến, mỗi người dân là một chiến sĩ. Ảnh: Bộ đội, tự vệ cùng nhân dân thành phố đắp lũy, dựng vật cản chặn quân Pháp trên phố Mai Hắc Đế.

Quân và dân Thủ đô lập chốt chiến đấu trên phố Hàng Bài

Ngày 26/9/1945, tại ga Hàng Cỏ, đoàn quân Nam tiến đầu tiên rời Hà Nội vào chi viện cho miền Nam, mở đầu cho phong trào Nam tiến, cả nước sát cánh cùng đồng bào Nam Bộ và Nam Trung Bộ đánh giặc cứu nước.

Sáng 20/12/1946, tại Hang Trầm (huyện Chương Mỹ, Hà Nội), Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát đi “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đồng bào, chiến sĩ cả nước.

Tư tưởng ấy không chỉ trong ngày 2/9/1945, mà là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Năm 1966, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang vào giai đoạn khốc liệt, Bác lại khẳng định một lần nữa: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do." Đó là lời hiệu triệu tiếp nối của một triết lý sống, một lý tưởng cách mạng mà Hồ Chí Minh đã kiên định trong hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản".

Bản Tuyên ngôn Độc lập, vì vậy, không chỉ là một tuyên bố về quyền tự do của một dân tộc, mà còn là sự thể hiện quyết tâm tuyệt đối, bất di bất dịch của nhân dân Việt Nam trong việc bảo vệ nền độc lập non trẻ, giữ vững giang sơn gấm vóc, và khẳng định một chân lý bất diệt: Không ai có thể khuất phục được ý chí tự cường của nhân dân Việt Nam.

Theo GS.TSKH. Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, với lời văn ngắn gọn, đanh thép, lập luận chặt chẽ đi vào lòng người, bản Tuyên ngôn Độc lập là một cơ sở pháp lý vững chắc, không chỉ có giá trị lịch sử khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển ngày nay.

c1-q-pgs-giang-8507.png
tg-kienw.png

Theo tienphong.vn
https://tienphong.vn/80-nam-doc-lap-chuong-i-tu-ben-nha-rong-den-ba-dinh-lich-su-post1768802.tpo
Đừng bỏ lỡ
    Đặc sắc
    Nổi bật Người quan sát
    Đọc tiếp
    80 năm Độc lập - Chương I: Từ bến Nhà Rồng đến Ba Đình lịch sử
    POWERED BY ONECMS & INTECH