Việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất không chỉ giúp doanh nghiệp dệt may cắt giảm chi phí sản xuất mà còn tạo lợi thế cạnh tranh mới cho ngành dệt may Việt Nam.
Dệt may còn nhiều dư địa để mở rộng xuất khẩu
Năm 2022, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may đạt 44,4 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2021. Mặc dù những tháng đầu năm đối mặt nhiều thách thức, trong đó vấn đề lạm phát ở các thị trường chủ lực như Hoa Kỳ, châu Âu khiến sức mua giảm, đơn hàng thấp nhưng Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) vẫn đặt mục tiêu tăng trưởng cao hơn. Cụ thể, với kịch bản sức mua thấp, xuất khẩu dệt may được kỳ vọng đạt 45 tỷ USD; ngược lại, nếu thị trường phục hồi tốt trong 6 tháng cuối năm, xuất khẩu dệt may có thể đạt 47 tỷ USD.
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Vitas cho rằng, ngành dệt may còn nhiều dư địa để tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu. "Trong vòng 2 năm tới, nhiều hiệp định thương mại tự do có hiệu lực, ưu đãi thuế quan giảm dần về bằng 0, đây là cơ hội cho ngành dệt may Việt Nam, thị trường xuất khẩu rất rộng mở", ông Vũ Đức Giang cho hay.
Bên cạnh việc tham gia thực thi 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) với độ phủ rộng hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường lớn nhất thế giới, Việt Nam cũng đang đẩy mạnh đàm phán FTA với Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA).
Ngoài ra, Việt Nam cũng là một trong 14 nước tham gia đàm phán về Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì thịnh vượng (IPEF). Đặc biệt, Việt Nam đã trở thành một trong những nước đi đầu khu vực trong việc hình thành các khuôn khổ hợp tác kinh tế đa phương.
Hiện Việt Nam đang nằm trong top 3 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đó là EU, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản đều dao động khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành.
Riêng với thị trường EU, bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Phó Tổng thư ký Vitas cho rằng chúng ta chưa khai thác hết tiềm năng thị trường này, giá trị đơn hàng vào EU khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành còn thấp so với kỳ vọng.
Trong những tháng đầu năm nay, dệt may Việt Nam đã tiếp cận một số thị trường mới như Canada, Australia… Điều này cho thấy các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới bắt đầu tác động tích cực đến ngành này.
Chủ tịch Vitas, ông Vũ Đức Giang cho biết đang kêu gọi các nhà thiết kế ưu tiên sử dụng sợi, vải và phụ liệu trong nước để sản phẩm dệt may từ Việt Nam tận dụng ưu đãi thuế quan của các FTA tốt nhất.
Làm chủ công nghệ là lợi thế cạnh tranh cho ngành dệt may trong tương lai
Để chuẩn bị cho giai đoạn thị trường phục hồi, các doanh nghiệp dệt may, nhất là doanh nghiệp nội địa đang nỗ lực cắt giảm chi phí sản xuất, bằng mọi cách giữ chân lực lượng lao động. Việc này không chỉ chuẩn bị nguồn lực sẵn sàng cho giai đoạn phục hồi đơn hàng mà còn để khẳng định tính ổn định của nền sản xuất trong nước như một yếu tố cạnh tranh với các quốc gia khác.
Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, như nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất khác, chi phí nhân công tăng nhanh đang gây áp lực cho các doanh ngiệp. Trong giai đoạn tới, yếu tố nhân công giá rẻ sẽ không còn là lợi thế của dệt may Việt Nam.
Trong khi đó, lâu nay, dệt may chủ yếu làm hàng gia công cho các nhãn hàng, giá trị lợi nhuận không cao. Do đó, định hướng phát triển của ngành dệt may Việt Nam là tiến dần lên các phương thức sản xuất mang lại giá trị gia tăng cao hơn, từ gia công tiến lên FOB, ODM. Xa hơn nữa, đến năm 2035, đóng góp chủ yếu vào giá trị xuất khẩu dệt may sẽ đến từ xuất khẩu các sản phẩm mang thương hiệu Việt.
Quá trình chuyển đổi này đang bắt đầu bằng quyết tâm mạnh mẽ của các doanh nghiệp trong thực hiện sản xuất bền vững và chuyển đổi số, đưa công nghệ vào quy trình sản xuất và kinh doanh.
Bà Trần Hoàng Phú Xuân, Tổng giám đốc Công ty CP Kết nối thời trang - Faslink cho biết, trong giai đoạn giãn cách xã hội, doanh nghiệp bắt đầu ứng dụng công nghệ thiết kế Style 3D, từ việc xây dựng một kho vải kỹ thuật số cho phép khách hàng ở bất kỳ đâu cũng có thể truy xuất thông tin, tính năng kỹ thuật và họa tiết của từng mẫu vải.
"Chúng tôi làm việc với khách hàng trên ứng dụng Style 3D, giới thiệu cho họ mẫu vải, thực hiện ngay tức thì các yêu cầu thiết kế trực tuyến theo ý tưởng của khách hàng, thay đổi màu sắc, họa tiết mẫu vải, thêm bớt phụ kiện trên sản phẩm mẫu không khác gì hai bên đang làm việc trực tiếp mặt đối mặt. Nhưng khác biệt ở chỗ, từ một mẫu vải đến khi ra thành phẩm theo yêu cầu của khách hàng chỉ trong một vài ngày so với trước đây phải cần vài tháng", bà Trần Hoàng Phú Xuân chia sẻ.
Kinh nghiệm của Faslink cho thấy, công nghệ thiết kế 3D cho phép doanh nghiệp cắt giảm gần như toàn bộ công đoạn may mẫu. Thậm chí doanh nghiệp đã thực hiện những cuộc trình diễn thời trang hoàn toàn trực tuyến, từ thiết kế, lên thành phẩm và người mẫu ảo trình diễn đều trên ứng dụng công nghệ Style 3D.
"Chúng tôi đã có 15% đơn hàng hoàn toàn từ ứng dụng thiết kế Style 3D. Như vậy công nghệ này không chỉ mở ra một kênh tiếp thị, tiếp cận khách hàng mà còn tiết giảm về thời gian, chi phí sản xuất rất lớn cho doanh nghiệp", bà Trần Hoàng Phú Xuân cho hay.
Tiết giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất sẽ tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Xa hơn, công nghệ thiết kế 3D được kỳ vọng sẽ hỗ trợ phát triển đội ngũ thiết kế tại chỗ, đây là điều kiện cần thiết để các doanh nghiệp chuyển từ làm hàng gia công lên các phương thức cao hơn.
Theo bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, nếu các doanh nghiệp chủ động được thiết kế mẫu cho các nhãn hàng sẽ rất thuận lợi chuyển lên phương thức ODM hoặc phát triển thương hiệu thời trang riêng.
Trong khi đó, ông Nguyễn Hữu Phúc, Tổng giám đốc Công ty TNHH Dệt may Como đề xuất cần sớm cập nhật công nghệ tiên tiến của dệt may thế giới vào chương trình giảng dạy của ngành thiết kế thời trang nước ta.
"Có tay nghề, làm chủ công nghệ sẽ là lợi thế cạnh tranh của ngành này trong tương lai. Cho nên sinh viên ngành thời trang phải làm chủ được công nghệ ngay trên giảng đường", ông Nguyễn Hữu Phúc đề xuất.