Làng nghề 'hồi hộp' đón cơ hội đổi mới
Đối với nhiều nghệ nhân làng nghề, thông tin vùng phía Bắc sông Hồng, Hà Nội sắp sửa “lên quận” khiến nhiều người không khỏi băn khoăn về tương lai.
Cách trung tâm Hà Nội 25 km, nằm ngay dưới triền đê sông Cà Lồ là làng Đào Thục (xã Thuỵ Lâm, huyện Đông Anh), nơi nổi tiếng với nghề làm rối nước. Ngôi thủy đình của làng Đào Thục dập dìu bước chân của từng tốp du khách, cả Tây lẫn Việt, không quản ngại đường xa tới xem các nghệ nhân trong phường rối biểu diễn.
Các phường rối thường tập trung biểu diễn lúc tiết trời vào đông hay sang xuân. Còn mùa hè, trùng với mùa vụ, các nghệ nhân lại cởi bỏ trang phục đi diễn, trở về đồng ruộng, ngày ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho giời. Chỉ tới khi chiều mát, hoặc có đoàn khách đặt trước, nghệ nhân làng Đào Thục mới xắn quần lội nước biểu diễn.
Làng Đào Thục nổi tiếng với nghề làm rối nước |
Những ngày này, tất bật nhất tại làng Đào Thục có lẽ là ông Nguyễn Văn Phi, vừa chế tạo rối nước, lại phải hoàn thành mọi nhiệm vụ của cái ghế trưởng thôn làng Đào Thục. Vào giai đoạn huyện Đông Anh chuẩn bị lên quận, ông Phi gần như không có thời gian ngơi nghỉ. Lúc thì đi phát phiếu khảo sát cử tri, lấy ý kiến người dân về chính sách mới, khi thì lên ủy ban xã họp. Việc làng việc xã khiến ông không còn rảnh rang để đục đẽo, tạo hình con rối. Vừa soạn đống phiếu cử tri, ông Phi vừa bộc bạch: “Ban ngày làm việc làng, đến tối mới có thời gian vào xưởng mộc, yên tĩnh để suy nghĩ về những nét mặt, dáng điệu của từng con rối trong kịch bản được đặt hàng”.
Tâm sự về cuộc chuyển mình của làng Đào Thục, ông Phi cho biết bản thân mình phải vừa đi vận động xin ý kiến, vừa giải thích cặn kẽ cho làng xóm về những thay đổi sẽ đến khi làng, xã lên phố, phường. “Nhiều bà con vẫn còn băn khoăn trước thông tin này, bởi nhiều người vốn đã quen với cuộc sống làng quê. Giờ lên phố, họ lạ lẫm với những quy định mới, họ dè chừng với những thay đổi mới”, ông Phi cho biết. “Ngay cả trong phường rối cũng đã có nhiều câu hỏi về việc vận hành làng rối một khi không còn mô hình làng nghề truyền thống do người dân tự giữ gìn, tự phát triển”. Cũng giống như nhiều người dân trong làng Đào Thục, ông Phi cũng không tránh khỏi suy nghĩ rồi ngôi làng với tuổi đời hàng trăm năm của mình sẽ biến chuyển như thế nào khi bị cuốn vào “cơn lốc” đô thị hóa.
Trải dọc chiều dài phát triển, Hà Nội đã nhiều lần chứng kiến sự thay đổi, hay thậm chí là biến mất của những ngôi làng cổ, nhường chỗ cho những con đường, phố xá mới. Những ngôi làng như Phú Đô, Xuân La, Xuân Đỉnh, Yên Thái khi chuyển đổi lên phố đã mất đi cảnh quan tươi đẹp năm xưa. Những hàng rào cúc tần nhường chỗ cho tường bê tông, những con ngõ nhỏ giờ bị các nhà tầng che kín khoảng trời. Việc thiếu vỉa hè, hệ thống chiếu sáng - thoát nước chắp vá khiến diện mạo các ngôi làng bị “bóp méo” và không tránh khỏi tình trạng ô nhiễm.
Là một người dành nhiều năm nghiên cứu các lớp trầm tích lịch sử của Hà Nội, nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến, tác giả của rất nhiều đầu sách khảo cứu về Hà Nội, cho biết vùng phía Bắc sông Hồng vốn là một mảnh đất sở hữu các giá trị văn hóa có giá trị như hệ thống các đền thờ liên quan tới cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, hay sự tích Thành Cổ Loa và đặc biệt là Hội Gióng, đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Ông Nguyễn Văn Phi |
Theo nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến, việc xây dựng các đô thị phía bắc và phía tây, các khu đô thị ven sông đều là những chủ trương tốt, giúp giảm tải mật độ dân số cho vùng nội đô Hà Nội. Trong tương lai, các đô thị ở phía bắc và phía tây nếu được quy hoạch tốt sẽ rất đáng hứa hẹn bởi chính quyền có cơ hội để tạo ra các công trình có giá trị kiến trúc, những tuyến phố văn minh, hiện đại hơn. “Việc quy hoạch thành phố quay mặt ra sông là cơ hội hiện thực hóa tầm nhìn của nhiều thế hệ người dân Hà Nội, không làm không được và phải làm”, nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến cho biết.
Một khi đã có chủ trương xây dựng đô thị phía Bắc sông Hồng cần đi kèm với việc mở rộng các tuyến giao thông công cộng để phát triển các hoạt động giao lưu kinh tế, du lịch. Hiện nay, mạng lưới giao thông công cộng của Hà Nội đã kết nối khá thuận tiện khu vực nội đô với các huyện Mê Linh, Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm.
Theo nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến, nếu biết tận dụng các di tích lịch sử, văn hóa đang có, cộng thêm với việc tạo ra các công trình, thiết chế văn hóa mới thì tiềm năng du lịch của vùng đô thị phía bắc sông Hồng sẽ rất hứa hẹn.
Ngoài việc giữ gìn và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tại vùng phía bắc sông Hồng, nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến cũng cho rằng cần phải xây dựng thêm các công trình văn hóa mới có giá trị và tầm vóc tương xứng với bộ mặt hiện đại của Thủ đô. “Nếu không xây dựng các công trình văn hóa mới, thì sẽ là có lỗi với các thế hệ sau của Hà Nội”, ông Tiến khẳng định.
Nằm ở cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô, huyện Đông Anh là vùng đất có bề dày lịch sử, truyền thống văn hóa lâu đời, mang nét đặc trưng của nền văn minh sông Hồng, với 124 di tích cấp quốc gia và cấp thành phố, các di sản văn hóa phi vật thể như ca trù, múa rối, lễ hội...
Bên cạnh đó, huyện còn có các sản phẩm làng nghề truyền thống đặc sắc, sản phẩm nông nghiệp, nông thôn đa dạng. Đây là những tiềm năng rất lớn để khai thác tạo nên những sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn khách du lịch.
Bản đồ vị trí các bãi sông Hồng trong khu vực quy hoạch |
Trong công cuộc chuyển đổi từ huyện lên quận, một yêu cầu cần đặt ra đó là chính quyền cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức của người dân tại các làng nghề truyền thống về cách “làm” du lịch bền vững, thích ứng được với những yêu cầu của thời đại “số hóa”.
Ngày 17/8, Sở Du lịch Hà Nội phối hợp cùng UBND huyện Đông Anh tổ chức Hội nghị về ứng xử văn minh du lịch và du lịch cộng đồng cho dân cư, nhằm giúp người dân khai thác tiềm năng, phát triển du lịch trên chính mảnh đất quê hương mình.
Theo đánh giá của các chuyên gia, các làng nghề thủ công truyền thống của Hà Nội đã và đang là xu hướng được khách du lịch tìm đến, không chỉ bởi những giá trị văn hóa lâu đời và sự sáng tạo của những người thợ làng nghề qua từng sản phẩm thủ công mà du khách còn đến với làng nghề Hà Nội để được ngắm cảnh quan của một làng quê đặc trưng vùng đồng bằng Bắc bộ với cây đa, giếng nước, sân đình; được tham quan, hòa mình cùng nơi sản xuất, trực tiếp tiếp xúc với thợ thủ công và tham gia làm thử một vài công đoạn sản xuất các sản phẩm.
Theo các nhà quản lý, chuyên gia du lịch, người dân cần được hướng dẫn kỹ năng phục vụ, giao tiếp, ứng xử văn minh du lịch và quy tắc ứng xử nơi công cộng; hướng dẫn kỹ năng xây dựng, kết nối sản phẩm du lịch tại địa phương mình.
Các chuyên gia cũng trao đổi về phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa để phát triển du lịch; phát triển du lịch cộng đồng gắn với xây dựng nông thôn mới; du lịch cộng đồng bền vững và những bài học kinh nghiệm.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Hồng Long, Trưởng khoa Du lịch học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cho biết: Để du lịch phát triển cần có sự chung tay cùng làm du lịch của cộng đồng. “Người dân cần nắm tâm lý, nhu cầu, văn hóa của du khách, đặc biệt là khách nước ngoài để có cách ứng xử, phục vụ phù hợp; học cách ứng xử thân thiện bằng những cử chỉ, lời nói, nụ cười... làm hài lòng khách”, ông Phạm Hồng Long chỉ ra. “Ngoài ra, vấn đề bảo đảm vệ sinh môi trường, chất lượng dịch vụ cũng cần bảo đảm để tạo sự thoải mái cho du khách”.
Quay trở lại làng Đào Thục, với nhiều nghệ nhân như ông Phi, cuộc sống khi nào còn xoay quanh với những con rối, thủy đình thì còn vui. Mỗi lần thủy đình đón khách là một lần cả làng được thổi một làn sinh khí mới. Thay vì dùng máy, ông Phi vẫn miệt mài chạm khác, đục đẽo bằng đôi tay trần rắn rỏi. Chứng kiến sự đổi thay mỗi ngày của ngôi làng, ông Phi càng thêm trân trọng từng nhát đục, vết khắc thủ công. Dù vậy, ông không ôm ghì lấy những giá trị truyền thống xa xưa, mà hiểu rằng giống như cuộc sống, múa rối nước Đào Thục phải gắn mình với dòng chảy xã hội.
“Phường múa rối không thể cứ diễn mãi vở cổ, phải có tích trò mới, con rối cũng phải hấp dẫn hơn để thu hút giới trẻ. Múa rối Đào Thục phải chuyển mình, hấp dẫn hơn”, ông Phi nói. “Mình phải đặt mục tiêu, ngày mai phải sáng hơn ngày hôm nay”.
Động thái của Chủ tịch Bắc Ninh với làng nghề ô nhiễm
Đề nghị phạt 41/45 cơ sở sản xuất trong làng nghề ô nhiễm ở Bắc Ninh