Những doanh nhân giàu nhất Việt Nam đầu thế kỷ 20: Người là “vua tàu thủy”, người tặng Chính phủ nhà máy in tiền
Từ đầu thế kỷ trước, Việt Nam đã có những thương gia giàu “nứt vách”.
Khái niệm tỷ phú, người giàu nhất Việt Nam, tỷ phú USD mới chỉ trở nên quen thuộc từ hơn chục năm trở về đây nhưng mở lại lịch sử, từ cách đây hơn thế kỷ, Việt Nam đã có những doanh nhân giàu có mua lại hãng đóng tàu của Pháp, lập xưởng in, chế tạo sơn nổi tiếng xuất ra nước ngoài. Không những thế, họ còn là những nhà tư sản dân tộc yêu nước thế kỷ 20.
“Ông vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi
Khi nói đến những người giàu có nhất của đất Việt vào đầu thế kỷ 20, cái tên Bạch Thái Bưởi được liệt vào hàng “tứ đại gia” không chỉ của Việt Nam mà là cả xứ Đông Dương.
Theo tư liệu của nhà sử học Dương Trung Quốc, Bạch Thái Bưởi sinh năm 1874 trong một gia đình nông dân ở làng Yên Phú, Thanh Trì, Hà Đông (nay là một quận thuộc Hà Nội). Nhà nghèo, nhưng ông vẫn được cha mẹ cố gắng cho học chữ quốc ngữ, chữ Pháp. Hằng ngày, chàng trai Bạch Thái Bưởi thường đi vớt củi trầm hương ở sông Nhuệ. Tiền bán cây trầm hương vớt được trên sông, chính là những khoản vốn liếng đầu tiên để ông khởi nghiệp.
Thạo tiếng Pháp, giỏi tính toán, ông được làm thư ký cho Công sứ Bonnet - người Pháp ở phố Tràng Tiền, Hà Nội. Để có cơ hội tiếp xúc với máy móc cơ giới và thu nhận những hiểu biết về cách tổ chức và quản lý sản xuất, năm 1894, ông chuyển sang làm việc cho một xưởng thuộc hãng thầu khoán.
Giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, người Pháp bắt đầu công cuộc khai thác thuộc địa, mở mang đường sá, xây dựng cầu cống. Khi mà việc làm ăn với người Pháp chẳng bao giờ nằm trong suy nghĩ của những nhà buôn đất Hà thành, chính Bạch Thái Bưởi nhận ra rằng phải kết hợp với người Pháp, học hỏi họ quản lý sản xuất kinh doanh, dùng đồng vốn của họ để cùng tiến xa hơn. Ông quyết định hùn vốn với người Pháp trở thành nhà cung cấp nguyên liệu cho dự án xây dựng tuyến đường sắt lớn nhất Đông Dương thời bấy giờ, bắt đầu từ cây cầu dài 3.500 m nối Hà Nội với Gia Lâm (cầu Long Biên ngày nay). Năm 1902, cầu được khánh thành cũng là lúc ông đã có số vốn lận lưng kha khá.
Từ chỗ có 3 tàu đi thuê, khai thác trên 2 tuyến đường thủy, sau 10 năm, công ty của ông đã sở hữu gần 30 tàu lớn bé và sà lan chạy hầu hết tuyến sông nước miền Bắc, chạy trên 17 tuyến hàng hải trong và ngoài nước, vươn đến tận Hồng Kông, Nhật Bản, Philippines, Trung Quốc, Singapore... Đặc biệt, trong đó có 6 chiếc tàu của hãng tàu Pháp bị phá sản được ông mua lại đặt cho những tên: Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi. Ngay việc đặt tên cho các con tàu chứng tỏ thương gia này có tinh thần tự tôn dân tộc rất lớn. Trung bình mỗi năm, đoàn tàu của ông chở tới 5.000 chuyến, hơn 1,5 triệu khách và 15 vạn tấn hàng hóa.
Đỉnh cao trong sự nghiệp kinh doanh vận tải đường thủy của Bạch Thái Bưởi là đã tổ chức đóng tàu Bình Chuẩn thành công với đoàn thợ thầy người Việt thiết kế thi công. Tàu dài đến 42m, trọng tải 600 tấn, động cơ 400 mã lực, được hạ thủy ngày 7.9.1919 tại Hải Phòng và cập cảng Sài Gòn ngày 17.9.1920. Sự kiện này đã làm nức lòng giới kinh doanh Nam kỳ, họ đã đúc bảng đồng với dòng chữ: “Tặng tàu Bình Chuẩn, chiếc tàu Việt Nam đầu tiên tại cảng Sài Gòn”.
Ông Bạch Thái Bưởi |
Cái tên Bạch Thái Bưởi được người đời sau đánh giá là một nhà tư sản dân tộc, một doanh nhân giàu ý chí tự cường, một thương gia lớn và có tinh thần tự tôn dân tộc chính vì những đóng góp của ông vào ngành hàng hải khởi đầu của nước nhà. Ngày 22/7/1932, sau hơn 20 năm ngang dọc trên thương trường, ông mất đột ngột tại Hải Phòng bởi một cơn đau tim. Cái tên Bạch Thái Bưởi từ đó đi vào huyền thoại bên cạnh những nhà tư sản yêu nước của dân tộc vào đầu thế kỷ 20.
“Ông tổ ngành sơn Việt” Nguyễn Sơn Hà
Doanh nhân Nguyễn Sơn Hà sinh năm 1894 tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội, trong một gia đình có 7 anh em. Từ nhỏ, Nguyễn Sơn Hà đã học chữ Nho và chữ Quốc ngữ, nhưng đến năm 14 tuổi, sau khi cha qua đời, hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông đã phải bỏ học để đi làm. Từ đó, trách nhiệm chăm sóc gia đình đặt trên vai ông.
Nguyễn Sơn Hà được một hãng buôn của Pháp tuyển vào làm phụ bàn giấy, nhưng lương thấp, ông đã bỏ sang làm cho hãng sơn dầu Sauvage Cottu ở Hải Phòng. Trong thời gian làm việc tại hãng sơn dầu Sauvage Cottu, với mục tiêu tự lập và làm giàu, chỉ trong một thời gian ngắn, Nguyễn Sơn Hà đã học được cách sản xuất sơn, bắt đầu từ phương pháp thủ công, sau đó dần tiếp cận với kỹ thuật hiện đại. Từ đó, ông không ngừng nung nấu ý chí tạo dựng một hãng sơn dầu của người Việt Nam.
Ông Nguyễn Sơn Hà |
Mỗi khi có thời gian rảnh rỗi, ông tìm đọc những cuốn sách về nghề sơn từ tủ sách của nhà chủ. Do sách viết bằng tiếng Pháp, ông phải tìm thầy học thêm tiếng Pháp vào buổi tối. Khi đã nắm vững bí quyết nghề làm sơn và kinh doanh sơn dầu, Nguyễn Sơn Hà quyết định kinh doanh riêng ở tuổi 22, năm 1917. Để có vốn làm ăn, Nguyễn Sơn Hà bán chiếc xe đạp rồi mở một cửa hàng nhỏ chuyên nhận quét vôi, kẻ biển, sơn nhà cửa, đồng thời chế tạo thử sơn dầu ở Hải Phòng. Cùng với mấy anh em trong nhà, Nguyễn Sơn Hà vừa làm chủ, vừa làm thợ.
Gia đình doanh nhân Nguyễn Sơn Hà |
Sản phẩm đầu tiên xưởng của ông tung ra thị trường mang thương hiệu Résistanco, tiếng Pháp có nghĩa là “bền chặt”, nhưng lại không được người Pháp đánh giá cao. Không bỏ cuộc, ông tiếp tục miệt mài nghiên cứu và cuối cùng, nhiều mẫu sơn hoàn hảo ra đời với cái tên Résistanco A, Résistanco B dùng cho sơn xe đạp, Durolac để sơn ô tô, Ideal để sơn tường... Chất lượng không thua sơn của Pháp nhưng giá thấp hơn nhiều. Có sản phẩm rồi, ông phải chạy tìm nơi tiêu thụ để người dùng biết đến sản phẩm càng nhanh, càng nhiều càng tốt.
Một góc kho trong khu nhà máy của Nguyễn Sơn Hà |
Ông được Hãng Descous et Cabaud của Pháp đề nghị được làm đại lý phân phối và nhanh chóng đưa sơn Résistanco phủ thị trường cả nước, bán sang các nước khu vực Đông Dương. Mặc dù tại thời điểm đó, một số hãng sơn ngoại chèn ép “tân binh” sơn Việt này rất nhiều, nhưng thương hiệu sơn Résistanco của Nguyễn Sơn Hà vẫn đứng vững và phát triển mạnh.
Các trường hợp thành công của ông Bạch Thái Bưởi hay ông Nguyễn Sơn Hà có thể nói là những tảng băng lớn đổ vào niềm kiêu hãnh của những nhà tư sản Pháp đang đầu tư làm ăn tại Việt Nam thời bấy giờ trong vị thế đi khai hóa văn minh xứ thuộc địa. Họ không những bị cạnh tranh mà buộc phải bán nhà máy cho người dân tại xứ sở họ đang đô hộ. Việc khôn khéo để vượt qua thủ đoạn chèn ép, bắt nạt của những “ông lớn” đến từ nước ngoài, thành công vượt mặt họ của những thương gia Việt tại thời điểm đó đã là kỳ tích đáng ngưỡng mộ.
Các thương nhân tặng Chính phủ nhà máy in tiền
Ngô Tử Hạ sinh năm 1882 tại một vùng quê nghèo tại làng Quy Hậu, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình trong một gia đình nông dân theo đạo Thiên Chúa. Thuở nhỏ, ông theo học trong trường dòng. Là một học sinh chăm học, lại thông minh nên ông luôn là học sinh giỏi nhất lớp. Ông thông thạo tiếng Pháp.
Cũng như nhiều gia đình nông dân ở Kim Sơn thời đó, ông lập gia đình khá sớm. Năm 17 tuổi, vợ qua đời để lại hai con nhỏ. Để con lại cho bố mẹ nuôi, ông bỏ quê lên Hà Nội làm đủ mọi nghề để kiếm sống và gửi tiền về nuôi con. Nghề cuối cùng và cũng là nghề giúp ông xây dựng nghiệp lớn là nghề in. Lúc đầu ông vào làm thuê cho một cơ sở in bao bì, mà chủ yếu là in vỏ bao thẻ hương. Vốn thông minh, chịu khó làm và sử dụng vốn tiếng Pháp sẵn có để đọc tài liệu kỹ thuật nhằm không ngừng cải tiến, nâng cao năng suất lao động nên thu nhập của ông không ngừng tăng.
Sau vài năm dành dụm, ông đã mua được máy in và mở cơ sở in của riêng mình mang tên Ngô Tử Hạ ngay gần khu vực nhà thờ Hà Nội (số 24 Lý Quốc Sư, Hà Nội ngày nay). Kinh tế ổn định, ông xây dựng gia đình với một cô gái Hà Thành. Biết cách làm ăn, lại được sự giúp đỡ của vợ và gia đình vợ, ông “phất” rất nhanh, mua thêm nhiều máy in loại hiện đại, mở rộng phát triển ngành in và trở thành người nổi tiếng nhất Đông Dương trong lĩnh vực in ấn, là một trong 300 nhà tư sản giàu nhất Đông Dương thời đó.
Ông Ngô Tử Hạ |
Điều đặc biệt thú vị là những tờ giấy bạc đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà người dân quen gọi là “đồng bạc cụ Hồ” đã được in tại nhà in của ông Ngô Tử Hạ. Những “đồng bạc cụ Hồ” được in và phát hành kịp thời không những đáp ứng nhu cầu chi dùng cho người dân mà có ý nghĩa quan trọng là khẳng định chủ quyền độc lập của quốc gia, được Chính phủ tin tưởng giao cho nhà in Ngô Tử Hạ thực hiện. Sau này, khi nhu cầu in ấn tiền của Chính phủ mới càng nhiều, chính một nhà tư sản yêu nước khác là ông Đỗ Đình Thiện (1904 - 1972) vào năm 1946 đã bỏ tiền ra mua lại nhà in của Pháp rồi hiến tặng lại cho Chính phủ để lập nhà in tiền. Tháng 3/1946, nhà máy in tiền được chuyển về đồn điền Chi Nê rộng hơn 7.000 ha của gia đình ông Đỗ Đình Thiện ở Hòa Bình.
Ông Đỗ Đình Thiện |
Ngoài những đóng góp về cơ sở, tiền bạc, tại buổi đấu giá bức tranh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh do họa sĩ Nguyễn Sáng vẽ để gây Quỹ Độc lập Trung ương năm 1945, ông Thiện đã bỏ ra một triệu đồng Đông Dương (khoảng gần 2.000 lạng vàng) mua bức tranh, sau đó tặng ngay cho Ủy ban Kháng chiến hành chính TP.Hà Nội. Đồng lòng sát cánh cùng chính quyền còn non trẻ, đóng góp vô điều kiện, nhưng không chọn thủ đô để sinh sống, năm 1947, ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình gồm mẹ già và 4 con (nhỏ nhất 4 tuổi, lớn nhất 12 tuổi) lên Việt Bắc đi cùng cuộc kháng chiến 9 năm. Đồn điền Chi Nê được ông bà giao cho Ban Kinh tài của Đảng quản lý, đồng thời đóng góp gần nửa cổ phần để xây dựng Việt Nam công thương Ngân hàng (tiền thân của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam). Khi kháng chiến thắng lợi, gia đình ông trở về thủ đô Hà Nội, sống tại nhà riêng ở 76 Nguyễn Du, Hà Nội.
Vợ chồng doanh nhân Hà thành hiến tặng hơn 5.000 lượng vàng
Vợ chồng doanh nhân Trịnh Văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ là một gia đình có truyền thống kinh doanh mặt hàng tơ lụa ở phố Hàng Ngang, Hà Nội.
Doanh nhân Hoàng Thị Minh Hồ (sinh năm 1914, ở 21 Hàng Đào, Hoàn Kiếm), trong một gia đình giàu sang, quyền quý bậc nhất Hà Nội bấy giờ. Bà là con gái của Hoàng Đạo Phương, một thương gia, một nhà nho uyên bác.
Năm 18 tuổi, bà Hoàng Thị Minh Hồ lập gia thất với ông Trịnh Văn Bô, được cha mẹ cho ở riêng tại nhà số 48 Hàng Ngang và kế thừa hiệu buôn tơ lụa Phúc Lợi. Kế nghiệp một gia đình tiếng tăm, bằng tài năng bẩm sinh của mình, bà Hoàng Thị Minh Hồ lao động không một ngày ngưng nghỉ và đã đưa sản nghiệp của nhà chồng lên đến một đỉnh cao hiếm có.
Từ số vốn 30 ngàn đồng Đông Dương được mẹ cho khi ra ở riêng, vợ chồng ông Trịnh Văn Bô - bà Hoàng Thị Minh Hồ đã trở thành thương gia giàu có nức tiếng đất Hà Thành khi đó.
Doanh nhân Trịnh Văn Bô và vợ - bà Hoàng Thị Minh Hồ. Ảnh: Gia đình cung cấp |
Năm 1945, Cách mạng Tháng tám diễn ra thành công. Với lòng yêu nước, gia đình bà đã dành tặng ngôi nhà 48 Hàng Ngang để cán bộ Cách mạng có nơi làm việc. Đây cũng chính là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ra bản Tuyên ngôn độc lập.
Không chỉ vậy trong "Tuần lễ vàng" do Chính phủ phát động, vợ chồng bà đã không ngần ngại hiến tặng 5.147 lượng vàng. Vợ chồng bà còn là thành viên cốt cán trong ban vận động "Tuần lễ vàng", khích lệ giới công thương và nhân dân quyên góp được 20 triệu đồng Đông Dương và 370 kg vàng. Trong nạn đói năm 1945, ông bà cũng mang tiền đi cứu trợ người dân, mua 1.000 vé phát cháo, phát cho người đói.
Vợ chồng doanh nhân Trịnh Văn Bô cùng mẹ tham dự "Tuần lễ vàng" năm 1945. Ảnh: Gia đình cung cấp |
Vợ chồng ông bà sau đó cùng được Chính phủ trao tặng huân chương độc lập hạng nhất vì những đóng góp to lớn cho Cách mạng. Ông Trịnh Văn Bô còn được truy tặng danh hiệu Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu vào năm 2006 cùng với ba doanh nhân nổi tiếng khác là Lương Văn Can, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà. Năm 2019, tên của ông được lựa chọn đặt cho một con đường ở quận Nam Từ Liêm.
Với thành tựu giá trị để lại, những nhà tư sản dân tộc Bạch Thái Bưởi, Ngô Tử Hạ, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô, Đỗ Đình Thiện… tài ba, yêu nước, giàu lòng tự tôn dân tộc… đến nay vẫn được xem là ngọn cờ đầu trong ngành thương nghiệp nước nhà.
Tỷ phú Johnathan Hạnh Nguyễn sở hữu cơ nghiệp đồ sộ cỡ nào ở tuổi U80?