Vị Trạng nguyên kiệt xuất, giỏi Toán nhất lịch sử Việt Nam: Sứ thần phương Bắc phải ngả mũ thán phục, tên được đặt cho nhiều địa danh

01-04-2024 08:01|Nam Trần

Cho đến nay, vẫn chưa ai có thể xứng đáng với danh hiệu Trạng nguyên giỏi toán nhất lịch sử Việt Nam của người đàn ông này.

Tỉnh Nam Định tự hào là đất học, nơi sản sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước. Trong đó, không thể không nhắc đến Lương Thế Vinh. Lương Thế Vinh sinh năm 1441 ở làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam, nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo (Vụ Bản, Nam Định). Ông xuất thân trong gia đình không có truyền thống học hành, song lại thông minh hơn người, tinh thông văn thơ kinh sử, giỏi tính toán.

Hồi nhỏ, ông nổi tiếng khỏe mạnh, học giỏi, nhưng nghịch ngợm cũng bằng mười chúng bạn. Lớn lên một chút, ông được bố mẹ gửi tới học với cụ Giải nguyên Lương Hay ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa) và trở thành học trò giỏi của cụ, đỗ Trạng nguyên ngay trong lần đầu lều chõng đi thi vào năm 22 tuổi.

Ông Trạng Lường

Sinh thời, Lương Thế Vinh được biết đến nhiều hơn với biệt danh Trạng Lường bởi rất giỏi đo lường, tính toán. Sử sách của nước ta chép lại khá nhiều câu chuyện về Trạng Lường. Sách Thần đồng xưa của nước ta viết, tương truyền từ thuở nhỏ, có lần chơi cùng chúng bạn dưới gốc cây cổ thụ, cả nhóm thách đố nhau làm thế nào để biết được cây cao hay thấp. Một số cho rằng chỉ có cách trèo lên ngọn cây rồi dùng dây thòng xuống đất mà đo. Riêng Lương Thế Vinh nói không cần.

Trạng Lường Lương Thế Vinh

Trạng Lường Lương Thế Vinh

Lương Thế Vinh lấy chiếc gậy đo xem dài ngắn bao nhiêu, rồi dựng gậy lên mặt đất và đo chiều dài bóng gậy. Tiếp đoạn, ông đo bóng cây và sau một lát nhẩm tính đã tìm ra chiều cao của cây. Bọn trẻ không tin bèn dùng thừng nối lại, buộc hòn đá phía dưới rồi trèo lên tít ngọn cây dong thừng xuống đất để đo. Kết quả đúng như Vinh đã tính.

Tác giả Quốc Chấn viết lời bình: "Ngày nay, cách tính chiều cao của cây mà Lương Thế Vinh áp dụng chắc học sinh không lấy gì làm lạ. Nhưng cách đây gần 5 thế kỷ thì việc Lương Thế Vinh tính được tỷ lệ chiều cao của cây và chiếc gậy bằng tỷ lệ bóng của chúng trên mặt đất là một sáng tạo, thể hiện rằng nước ta ở thế kỷ 15 đã có nhà toán học đầy tài năng".

Chưa đầy hai mươi tuổi, tài học của Lương Thế Vinh đã nổi tiếng khắp vùng Sơn Nam. Năm 23 tuổi, đời vua Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ tư (1463), Lương Thế Vinh đỗ Trạng nguyên. Theo Đại Việt sử ký toàn thư khoa thi có tới 4.400 cử nhân dự và chọn được 44 tiến sĩ, Lương Thế Vinh đỗ đầu. Vua Lê Thánh Tông phấn khởi trước thắng lợi của khoa thi khi mình mới lên ngôi đã đặc ân ban một lá cờ khoa, tự tay đề tên ba vị đứng đầu kì thi thành một bài thơ: Trạng nguyên Lương Thế Vinh/ Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh/ Thám hoa Quách Đình Bảo/ Thiên hạ cộng tri danh.

“Thiên hạ cộng tri danh” trong câu thơ nghĩa là mọi người trong thiên hạ đều biết tên. Từ đó, danh tiếng của Trạng nguyên Lương Thế Vinh vang lừng khắp nước.

Sau khi đỗ đạt, Lương Thế Vinh ra làm quan trong vòng 32 năm, nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Ông làm ở Viện hàn lâm, được thăng đến chức đến chức Hàn lâm Thị thư chưởng Hàn lâm viện sự, đứng đầu Viện hàn lâm. Ông thường khuyên vua chọn người hiền tài, đặt quan chức để "vì dân mà làm việc", nhà vua và triều đình phải "đồng tâm nhất thể"; đồng thời cũng khuyên vua xử tội các quan lại làm sai.

Ông có biệt tài về ngoại giao, được nhà vua tin yêu, giao trọng trách soạn thảo văn từ bang giao và đón tiếp sứ thần nước ngoài. Nhiều bài biểu do Lương Thế Vinh soạn gửi cho vua Minh để giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ giữa hai nước, đều được vua Minh chấp thuận. Trong lần làm sứ nhà Thanh, Chu Hy phải thán phục tài năng tính toán của ông. Lần đó, Chu Hy yêu cầu quan trạng cân trọng lượng của một con voi rất to. Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên.

Tranh minh họa bài toán cân voi của Trạng Lường năm xưa

Tranh minh họa bài toán cân voi của Trạng Lường năm xưa

Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả. Chu Hy thán phục, nhưng tiếp tục đố Lương Thế Vinh đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ quyển sách. Vị quan nhà Lê trả lời rằng chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra. Sứ nhà Thanh khi đó đã phải thốt lên: “Nước Nam quả có lắm người tài”.

Ngoài việc triều chính, ông còn tham gia dạy học tại Quốc Tử Giám, Sùng Văn Quán và Tú Lâm cục. Đây đều là những trường cao cấp đào tạo nhân tài cho đất nước thời bấy giờ. Học trò của ông có nhiều người đỗ đạt cao như Nguyễn Tất Đại đỗ Tiến sĩ năm 1469; Trần Bích Hoành đỗ Thám hoa năm 1487; Trần Xuân Vinh đỗ Tiến sĩ; và Lương Đắc Bằng đỗ Bảng nhãn năm 1499. Lương Đắc Bằng lúc 12 tuổi đã học Lương Thế Vinh, được thầy truyền thụ về toán học, sau này là thầy học của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Quan điểm giáo dục tiên tiến, học rộng biết nhiều

Tác giả Nguyễn Huy Thắng mô tả Lương Thế Vinh trong cuốn “Những người thầy trong sử Việt” là “người thầy khác mọi thầy”. Tác giả cho rằng quan điểm giáo dục của thầy giáo Lương Thế Vinh không giống những bạn đồng liêu. Bằng kinh nghiệm, ông chủ trương học trò cần học tập chuyên tâm, nhưng cũng phải biết kết hợp với giải trí thoải mái, gần gũi với người dân, hòa mình với thiên nhiên và phải tìm mọi cách vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.

Ông cũng mạng dạn đề xuất những cải cách về học hành thi cử, đưa việc học xuống tận thôn dân, không ưu đãi các quan lại đương chức trong việc thi cử để chọn đúng kẻ thực tài, quan tâm đến việc dạy đạo đức và những tri thức khác có ứng dụng trong thực tế.

Bản phô tô bài thi trong kỳ thi Đình của trạng Lường

Bản phô tô bài thi trong kỳ thi Đình của trạng Lường

Với quan niệm "Thần cơ diệu toán vạn niên sư" (ai tính toán giỏi là người thầy muôn đời), Lương Thế Vinh đã dành nhiều tâm huyết để biên soạn cuốn Đại thành toán pháp để tiện dùng, đó cũng là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Trong cuốn sách, ông đã tổng kết những kiến thức toán thời đó và cả những phát minh của ông bằng chữ Nôm, nội dung nói về các kiến thức về số học, phương pháp đo lường bóng (phương pháp đồng dạng), hệ số đo lường, cách cân, đo, đong, đếm, định vị, đơn vị, tiền vải và dạy toán đạc điền...

Ở mỗi phần, mỗi phương pháp, ông còn có bài thơ Nôm cho người ta dễ nhớ. Ví dụ dạy cách tính diện tích hình thang, ông viết: "Tam giác bị cụt đầu/ Diện tích tính làm sao/ Cạnh trên cạnh dưới cộng vào/ Đem nhân với nửa bề cao khắc thành. Cuốn sách của Lương Thế Vinh không chỉ nổi tiếng khắp trong nước mà còn vang danh ở cả nước ngoài.

Điều đáng chú ý là cuốn sách soạn từ thế kỷ XV, mà mãi đến thế kỷ XIX nó vẫn được dùng làm sách giáo khoa để dạy toán trong các trường học. Thời Lương Thế Vinh, các công cụ tính toán thật là thô sơ, nghèo nàn. Ở Việt Nam lúc đó, công cụ tính toán chủ yếu vẫn là hai bàn tay bằng cách “bấm đốt ngón tay”. Người ta còn dùng một sợi dây với những nút thắt làm công cụ đếm (thắt nút, cởi nút).

Ngoài ra, ông còn am hiểu sâu sắc về âm nhạc và hát chèo. Dường như không một tối diễn chèo nào ở kinh đô lại vắng mặt ông. Cũng vì Lương Thế Vinh gần gũi nhiều phường chèo, biết nhiều tích, nhiều vai, nên Lương Thế Vinh thấy được chỗ yếu, chỗ mạnh của từng phường. Trạng nguyên của triều Lê còn là tác giả của Hý phường phả lục nêu những nguyên tắc có tính lý luận về nghệ thuật biểu diễn, diễn viên, múa hát và đánh trống. Đây có thể coi là tác phẩm lý luận đầu tiên về nghệ thuật kịch hát cổ truyền.

Về văn thơ, Lương Thế Vinh cũng có nhiều đóng góp. Ông giữ chức Sái phu trong hội thơ Tao đàn của vua Lê Thánh Tông, là người chuyên phê bình, sửa chữa thơ trong hội, nhiều lần đã ngâm họa với vua Lê như bài Tư gia tướng sĩ (Tướng sĩ nhớ nhà) và bài Lục Vân động (Động Lục Vân)... Ông còn cùng với Đỗ Nhuận, Thân Nhân Trung, Đào Cử... soạn nhiều bài ký, văn bia ở Văn Miếu, ở chùa Diên Hựu (Một Cột).

“Lấy ai làm Trạng nước Nam ta?”

Cuối đời, Trạng nguyên Lương Thế Vinh về trí sĩ tại quê nhà. Ông về hưu thực ra không phải vì ốm yếu, mà ông muốn rảnh rỗi trở về sống yên tĩnh ở quê hương, làm thêm việc gì có ích trước khi xuôi tay, nhắm mắt. Sống ở quê hương, ngày ngày leo núi, thả diều, đọc sách, vui chơi với các bô lão nông thôn. Ngoài ra, ông đi sâu nghiên cứu về đạo Phật, đã chú giải nhiều kinh Phật và đề tựa cho in nhiều tác phẩm Phật học như Nam tông tự pháp đồ và Thiền môn giáo khoa của nhà sư Thường Chiếu thời Lý.

Ông trạng đa tài Lương Thế Vinh mất năm 1495 tại quê nhà, thọ 54 tuổi. Vua Lê Thánh Tông rất thương tiếc, làm một bài thơ Nôm gửi về phúng điếu. Câu cuối, nhà vua ai oán than "Lấy ai làm Trạng nước Nam ta?”

Đền thờ Trạng nguyên Lương Thế Vinh tại quê hương ông (Cao Phương, Liên Bảo, Vụ Bản, Nam Định)

Đền thờ Trạng nguyên Lương Thế Vinh tại quê hương ông (Cao Phương, Liên Bảo, Vụ Bản, Nam Định)

Nhà bác học Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) đã hết lời ca ngợi Lương Thế Vinh, đánh giá ông là con người có tài kinh bang tế thế, một con người “tài hoa danh vọng vượt bậc”. Những đánh giá trên, thiết nghĩ là khá đầy đủ và đúng nhất về Trạng nguyên Lương Thế Vinh.

Quan điểm giáo dục và những đóng góp của Lương Thế Vinh được người đời ghi nhận. Ngày nay, nhiều đường phố, trường học được đặt theo tên của người thầy giáo mẫu mực này. Đền thờ Lương Thế Vinh tại huyện Vụ Bản (Nam Định) năm 1990 đã được công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia.

Tham khảo:
- Lương Thế Vinh - người thầy giỏi Toán 'khác mọi thầy' - Báo VnExpress (17/11/2018)
- Lương Thế Vinh – nhà toán học xuất sắc thế kỷ XV - Tạp chí Người Hà Nội online (05/11/2023)

>> Thần đồng Toán học duy nhất Việt Nam 7 tuổi giải được Toán lớp 12, 15 tuổi dẫn đầu toàn thế giới, gia nhập Viện Hàn lâm Khoa học quốc gia Mỹ

Vị trạng nguyên nào từng từ chối lấy công chúa làm vợ?

Nữ Trạng nguyên đầu tiên và duy nhất trong lịch sử khoa bảng phong kiến Việt Nam

Vị Lưỡng quốc Trạng nguyên kiệt xuất nhất sử Việt, từng làm quan trải qua 3 đời vua

Theo Chất lượng và cuộc sống
https://chatluongvacuocsong.vn/vi-trang-nguyen-kiet-xuat-gioi-toan-nhat-lich-su-viet-nam-su-than-phuong-bac-phai-nga-mu-than-phuc-ten-duoc-dat-cho-nhieu-dia-danh-d119251.html
Bài liên quan
Đừng bỏ lỡ
Nổi bật Người quan sát
Vị Trạng nguyên kiệt xuất, giỏi Toán nhất lịch sử Việt Nam: Sứ thần phương Bắc phải ngả mũ thán phục, tên được đặt cho nhiều địa danh
POWERED BY ONECMS & INTECH