Việt Nam có 1 thành phố ‘đang chìm’ nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau Thâm Quyến (Trung Quốc)
Hiện tốc độ lún của thành phố này dao động 2-5cm/năm, riêng khu vực xây dựng dày đặc có thể tới 7-8cm/năm.
Thông tin trên báo Thanh Niên, cơ quan chức năng TP. HCM cho biết, nhiều tuyến đường trọng điểm như Huỳnh Tấn Phát, Trần Xuân Soạn, Lê Văn Lương, Đào Sư Tích và Quốc lộ 50 thường xuyên bị ngập khi triều cường lên cao. Ngoài ra, hàng loạt tuyến đường khác như Hồ Học Lãm, Quốc lộ 1, Kha Vạn Cân, Bạch Đằng, Thảo Điền, Quốc Hương, Nguyễn Văn Hưởng… cũng thường xuyên ngập do mưa lớn kết hợp triều cường. Đây đồng thời là những khu vực có tốc độ sụt lún cao.
PGS.TS Lê Trung Chơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển bền vững (Trường ĐH Tài nguyên và Môi trường TP. HCM), cho biết tình trạng sụt lún đã được ghi nhận rõ qua nhiều đợt quan trắc. Năm 2014, Bộ Tài nguyên và Môi trường (cũ) đo đạc 329 mốc độ cao phục vụ dự án chống ngập, kết quả cho thấy 143 mốc lún từ 5 cm đến hơn 70cm (chiếm 43,5%), 111 mốc bị mất (33,7%) và chỉ 75 mốc ổn định (22,8%). Hiện tượng lún từ 5-10cm vẫn tiếp tục diễn ra trên diện rộng, có nơi đã vượt quá 70cm.

Đến năm 2016, Chính phủ yêu cầu mở rộng quan trắc. Kết quả cho thấy giai đoạn 2005 – 2015, nhiều khu vực của TP. HCM lún trên 10cm, diện tích bị ảnh hưởng lên tới 239km2, tập trung tại các địa bàn (cũ) như Bình Chánh, Bình Tân, Thủ Đức, Nhà Bè, quận 8, quận 7, quận 2 và quận 12. Đặc biệt có điểm đo trong 10 năm lún 73,3cm và chỉ sau 2 năm đã tăng lên 81,7cm.
Khảo sát của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) cũng cho thấy tình trạng sụt lún diễn ra liên tục từ năm 1990, với độ lún tích lũy đến nay khoảng 100cm. Hiện tốc độ lún dao động 2-5cm/năm, riêng khu vực xây dựng dày đặc có thể tới 7-8cm/năm. Trong khi đó, mực nước biển trung bình chỉ tăng khoảng 1 cm/năm, nghĩa là tốc độ lún cao gấp đôi mức nước biển dâng, khiến nguy cơ TP. HCM “chìm dần” ngày càng rõ rệt.
“Các số liệu nghiên cứu cho thấy sụt lún vẫn gia tăng. Theo báo cáo cuối năm 2024, TP. HCM đứng thứ hai trong 10 đô thị ven biển ‘chìm nhanh’ nhất thế giới, chỉ sau Thiên Tân (Trung Quốc). Điều này đòi hỏi giải pháp quản lý và khắc phục quyết liệt hơn”, TS Trung Chơn nhấn mạnh.
Nhận định về tình trạng sụt lún, PGS.TS Lê Trung Chơn, cho biết nguyên nhân thường tập trung vào 4 yếu tố chính là nền địa chất yếu (khu vực Nam TP. HCM), suy giảm mực nước ngầm, hoạt động giao thông vận tải (tải động) và công trình dân dụng, tốc độ đô thị hóa (tải tĩnh - khu vực Tân Cảng, Ba Son là điển hình).
Ông Chơn cũng cho rằng sụt lún bề mặt đất tại TP. HCM đã là một thực tế khách quan hiện hữu mà thành phố cần phải đối diện và có giải pháp ứng phó lâu dài. Dù diễn ra từ từ, nhưng hậu quả của sụt lún đất kết hợp với biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, triều cường gia tăng sẽ gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn đến hạ tầng kỹ thuật, công trình dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội.

Trước thực trạng này, TP. HCM đã triển khai Đề án chống ngập và xử lý nước thải giai đoạn 2020 - 2045 cùng kế hoạch ngắn hạn đến năm 2030. Với ngập do mưa, thành phố đã giải quyết được 5/18 tuyến đường, đạt 27,7%; ngập do triều mới xử lý được 1/7 tuyến trục chính.
Hiện dự án ngăn triều 10.000 tỷ đồng đang được gấp rút thi công, đã hoàn thành 93,3% khối lượng. Thành phố cũng triển khai các dự án chống sạt lở bán đảo Thanh Đa, nạo vét - duy tu - gia cố kênh rạch nhằm tăng khả năng thoát nước. Song song đó, việc giảm khai thác nước ngầm được đẩy mạnh: đến cuối năm 2024, sản lượng khai thác đã giảm từ 716.581 m3/ngày xuống còn 252.528 m3/ngày, đạt 75,3% so với mục tiêu 2025 là dưới 100.000 m3/ngày.
Tình trạng sụt lún kết hợp với biến đổi khí hậu đang trở thành thách thức lớn cho sự phát triển bền vững của TP. HCM, đặt ra yêu cầu cấp bách về các giải pháp công trình đồng bộ, song hành cùng biện pháp quản lý tài nguyên và quy hoạch đô thị dài hạn.