Việt Nam sở hữu ‘kho báu dưới lòng đất’ thu hàng chục triệu đô trong 3 tháng, Malaysia, Đài Loan tích cực ‘đổ’ tiền mua
Chỉ trong 3 tháng đầu năm nay, xuất khẩu "kho báu" này đã thu về hơn 61 triệu USD.
Việt Nam là một quốc gia phong phú về tài nguyên, đặc biệt là các mỏ khoáng sản, nguồn nước, dầu khí. Công nghiệp khai khoáng Việt Nam tuy khởi đầu muộn màng, từ cuối thế kỷ XIX do Pháp khởi xướng, nhưng đã có những bước phát triển vượt bậc. Sau năm 1955, Việt Nam tiếp quản, duy trì và phát triển các cơ sở khai thác, chế biến khoáng sản. Đến nay, trên dải đất hình chữ S đã có hơn 5.000 điểm mỏ, quặng, được mệnh danh là "kho báu dưới lòng đất" của Việt Nam.
Việt Nam sở hữu 60/200 loại khoáng sản phổ biến trên thế giới, cùng với đó là vị trí thứ 15 thế giới về diện tích khoáng sản. Nổi bật trong số đó là các loại khoáng sản có trữ lượng lớn, tầm cỡ thế giới, mang ý nghĩa chiến lược và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu quặng và khoáng sản của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2024 ghi nhận những kết quả tích cực. Xuất khẩu quặng và các khoáng sản khác của Việt Nam đạt hơn 740.908 tấn, tương đương hơn 61 triệu USD, tăng 5,4% về lượng và tăng 71% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2023. Giá xuất khẩu bình quân đạt gần 82,4 USD/tấn, tăng mạnh 61% so với cùng kỳ năm trước.
Thị trường xuất khẩu quặng và khoáng sản của Việt Nam đang ghi nhận những chuyển biến mới với sự trỗi dậy của các thị trường mới bên cạnh thị trường truyền thống Trung Quốc. Theo đó, Malaysia, Đài Loan (Trung Quốc) và Hàn Quốc là 3 thị trường nhập khẩu quặng và khoáng sản Việt Nam nhiều nhất. Trung Quốc, thị trường từng chiếm vị trí chủ đạo trong top 3 nhưng nay đã bị thay thế bởi những thị trường khác.
Đặc biệt, xuất khẩu quặng và khoáng sản của Việt Nam sang Malaysia đang chứng kiến mức tăng trưởng ấn tượng khi quốc gia này vượt qua các thị trường lớn khác để giành vị trí số 1. Theo đó, trong tháng 3, Việt Nam đã xuất sang Malaysia tổng cộng khoảng 56.174 tấn quặng và khoáng sản, tương đương hơn 1,41 triệu USD. Trong khi đó, vào tháng 3 năm ngoái. Malaysia lại không thực hiện hoạt động nhập khẩu từ Việt Nam.
Như vậy tính chung 3 tháng đầu năm, quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á này đã chi ra 3,28 triệu USD để nhập khẩu 196.739 tấn quặng và khoáng sản từ Việt Nam, tăng đột biến 1.827% về lượng và tăng 202% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo Cục Địa chất Việt Nam, trong số những "kho báu dưới lòng đất" của nước ta, có một số loại khoáng sản quy mô trữ lượng đáng kể, tầm cỡ thế giới, có ý nghĩa chiến lược và là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nổi bật có thể kể đến:
Quặng titan: Quặng titan ở Việt Nam gồm 02 loại hình quặng gốc và quặng sa khoáng. Quặng gốc tập trung tại tỉnh Thái Nguyên, quặng sa khoáng tập trung ven biển các tỉnh từ Thanh Hóa vào đến Bà Rịa - Vũng Tàu. Tổng tiềm năng tài nguyên, trữ lượng quặng titan ở Việt Nam đạt khoảng 663,15 triệu tấn khoáng vật nặng có ích.
Quặng bauxit: Quặng bauxit ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc (Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang) và ở Tây Nguyên (Đăk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum) và tỉnh Bình Phước, Phú Yên. Trữ lượng và tài nguyên dự báo quặng bauxit trầm tích ở các tỉnh phía Bắc khoảng 88,5 triệu tấn. Đối với quặng bauxit laterit đã xác định được tổng trữ lượng và tài nguyên dự báo quặng bauxit-laterit đạt khoảng 3.500 triệu tấn quặng tinh.
Đất hiếm: Quặng đất hiếm phân bố tập trung ở các mỏ Bắc Nậm Xe, Nam Nậm Xe, Đông Pao (Lai Châu), Mường Hum (Lao Cai), Yên Phú (Yên Bái). Theo thống kê, trữ lượng và tài nguyên đất hiếm ở Việt Nam đạt khoảng gần 20 tấn Tr2O3.
Apatit: Cho đến nay đã xác nhận được 17 mỏ, điểm quặng apatit, tập trung chủ yếu ở tỉnh Lào Cai. Hầu hết các mỏ apatit đều có quy mô trung bình đến lớn. Trữ lượng và tài nguyên dự báo quặng apatit tính đến độ sâu - 900m là 2.373,97 triệu tấn.
Cát trắng: Cát trắng phân bố trên 09 tỉnh ven bờ biển Bắc Bộ và Trung Bộ với tiềm năng rất lớn song mức độ điều tra, đánh giá còn hạn chế. Tổng trữ lượng 13 mỏ đã thăm dò là 123 triệu tấn, tài nguyên dự báo khoảng 3 tỷ tấn.
Đá vôi chất lượng cao (trừ đá hoa trắng): Đá vôi có đáp ứng yêu cầu sản xuất xi măng, vôi công nghiệp, xô đa có mặt trên địa bàn 29 tỉnh cả nước nhưng phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở khu vực miền Bắc và Bắc Trung bộ. Đến nay, đã có trên 80 mỏ được điều tra đánh giá và thăm dò ở các mức độ khác nhau với tổng trữ lượng đạt khoảng 8 tỷ tấn.
Nước khoáng - nước nóng: Hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có nguồn nước khoáng - nước nóng. Cho đến nay đã điều tra đánh giá, ghi nhận được 400 nguồn nước khoáng - nước nóng.
Than: Than phân bố tập trung chủ yếu ở bể than Đông Bắc và bể than Sông Hồng. Ngoài trữ lượng than đã khai thác tính, nếu không tính than thuộc bể Sông Hồng, trữ lượng và tài nguyên còn lại là không lớn (khoảng 5 tỷ tấn kể cả tài nguyên dự báo).
Ngoài ra, nước ta còn một số khoáng sản kim loại khác như: quặng đồng, quặng sắt, mangan, antimon, thủy ngân, molipden, felspat, kaolin, sét kalin làm nguyên liệu sứ gốm, đá ốp lát v.v... đã được phát hiện, đánh giá tiềm năng tài nguyên, nhưng tài nguyên các loại khoáng sản này không lớn, phân bố rải rác.