Công trình đã đi vào lịch sử khi trở thành công trình thu hồi vốn nhanh nhất của ngành điện: Sau 3 năm vận hành đã khấu hao hết toàn bộ vốn của công trình.
Triển khai thần tốc
Với nguyên tắc "thiết kế và thi công đồng thời", một cuộc đua với thời gian đã diễn ra với sự gay go. Công việc đã bắt đầu trước khi thiết kế chi tiết và hoàn chỉnh. Nhóm cán bộ và công nhân phải đồng thời nghiên cứu thiết kế và tiến hành thi công. Với mục tiêu quyết tâm hoàn thành dự án trong vòng 2 năm, mọi nơi trên tuyến đường từ Hòa Bình qua miền Trung vào miền Nam đều trở thành các công trường. Các nhóm khảo sát, giám sát và thi công được phân chia thành hàng trăm tổ, được phân bố đều trên toàn tuyến để phát hiện và điều chỉnh kịp thời những vấn đề không hợp lý trong thiết kế.
Mặc dù phương pháp này thường được sử dụng trong việc xây dựng các công trình lớn, nhưng trong hoàn cảnh kinh tế - tài chính khó khăn của nước ta khi ấy, chi phí để thực hiện đồng thời nhiều công đoạn là khá cao. Ngoài ra, việc huy động một lượng lớn nhân công, máy móc và phương tiện cơ giới trong cùng một thời điểm để triển khai trên toàn bộ dự án cũng không dễ dàng.
Trong các công đoạn thi công như đúc móng, dựng cột và kéo dây, việc đúc móng được coi là phức tạp nhất. Để có thể đào móng, xây cột trên núi, việc đầu tiên là phải chặt cây để tạo đường vận chuyển vật liệu, thiết bị lên núi. Với sự hạn chế về máy móc, việc chặt cây phải được thực hiện bằng tay, sử dụng rìu hoặc cưa. Rừng già thường chứa đầy cây cổ thụ có đường kính lên tới 1,5m, vì vậy việc chặt cây để mở đường không hề dễ dàng. Trong trường hợp này, Ban Chỉ huy dự án đã phải kêu gọi sự hỗ trợ từ lực lượng dân quân, lao động địa phương và quân đội từ Quân khu 4, Quân khu 5 và Binh đoàn 15 để tham gia chặt cây và xây dựng đường, sau đó tạo ra các đường đồng mức để phương tiện máy móc có thể vận chuyển vật liệu đến các vị trí thi công.
Trong quá trình thi công, nhiều vị trí như đỉnh đèo Hải Vân, đồi núi Đại Lộc, Khâm Đức và đèo Lò Xo... không thể tiếp cận bằng máy móc, do đó, cần phải huy động dân địa phương, bà con các dân tộc mang vác vật liệu như xi măng, cát và nước lên đỉnh núi bằng gùi để phục vụ việc đúc móng. Mỗi người chỉ mang được khoảng 15kg trong mỗi chuyến. Tuy nhiên, với sự đồng lòng, từng móng cột đã được dựng lên trải dài dọc đất nước.
Việc dựng cột cũng là một quá trình căng thẳng. Trong khi nhiều quốc gia khác trên thế giới đã chọn sử dụng cột đúc sẵn và lắp ráp bằng máy bay, kỹ sư và công nhân chỉ cần bắt đai ốc và bulong, nhưng ở Việt Nam, công nghệ này không thích hợp. Thay vào đó, phải áp dụng kỹ thuật "trụ leo". Đây là phương pháp phù hợp cho những khu vực có địa hình đồi núi phức tạp, nghĩa là dùng dây tời bằng thép chắc chắn để lắp ráp từng đoạn cột.
Để đảm bảo tiến độ dựng cột, Ban Chỉ huy đã phân công cho các nhóm, yêu cầu mỗi nhóm phải hoàn thành một cột trong vòng 2 ngày. Phương pháp dựng cột độc đáo này cùng với hình ảnh công nhân kỹ thuật leo lắp ráp cột đã khiến đoàn khảo sát của nước ngoài phải “ngả mũ thán phục”. Với phương pháp lắp trụ leo và khoán cột theo ngày, đến tháng 3/1993, việc dựng cột trên toàn tuyến đã hoàn thành.
Đến tháng 4/1994, cơ bản công trình được xây dựng hoàn tất với khối lượng sơ bộ gồm lắp dựng 3.437 cột tháp sắt (trong đó có 12 vị trí đảo pha); căng 1.487km dây dẫn (mỗi pha 4 dây) và dây chống sét (hai dây chống sét, trong đó 1 dây có mang dây cáp quang); xây dựng 22 trạm lặp cáp quang, 19 chốt vận hành đường dây; đổ 280.000m³ bê tông móng với 23.000 tấn cốt thép; 60.000 tấn cột điện, 23.000 tấn dây dẫn và 930 tấn dây chống sét; 6.300 tấn cách điện.
Bên cạnh những nỗ lực của đội ngũ kỹ sư và công nhân, còn có sự đồng hành và ủng hộ mạnh mẽ từ phía cộng đồng dân cư tại các địa phương mà đường dây đi qua. Nhiều gia đình đã tự nguyện hiến đất và di dời nhà cửa để hỗ trợ việc giải phóng mặt bằng. Thêm vào đó, lãnh đạo chính quyền các tỉnh, thành phố trên tuyến cũng đã dành sự quan tâm đặc biệt cho tiến độ thi công, chỉ đạo mọi hoạt động liên quan.
Một câu chuyện đáng cảm động khác cũng được kể lại: Khi xây dựng đường dây điện vượt sông Gianh, Bộ Năng lượng đã quyết định sử dụng phương án kéo dây, với điều kiện là dây không được chạm nước. Nhóm công nhân đã đề xuất một kế hoạch kết nối hàng trăm chiếc thuyền để kéo dây qua sông. Nhưng họ gặp khó khăn khi không biết phải tìm phà ở đâu. May mắn, nhờ sự hỗ trợ từ cộng đồng dân cư làng Vân Phú, hơn 230 chiếc thuyền đã được huy động để giúp kéo dây cáp qua sông Gianh. Đó chính là sức mạnh đoàn kết của nhân dân, như Bác Hồ đã nói: "Dễ trăm lần, không dân cũng chịu. Khó vạn lần, dân liệu cũng xong".
Sau hơn 2 năm xây dựng thần tốc, đúng 19 giờ 7 phút 59 giây ngày 27/5/1994, dòng điện Bắc - Nam đã chính thức “lưu thông” trên toàn tuyến, mở ra một bước tiến quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Công trình của những kỷ lục
Việc hoàn thành thi công công trình đường dây 500kV dài 1.487km trong vỏn vẹn 2 năm để cấp điện cho miền Nam đang thiếu điện nghiêm trọng là một kỳ tích không chỉ với những người thợ ngành điện Việt Nam mà cả với thế giới.
Công trình huy động khoảng 20.000 người ngành điện và các lực lượng khác tham gia. Công trình đường dây 500kV hoàn thành với tổng giá trị thực hiện quyết toán là 5.488,39 tỷ đồng (tương đương 544 triệu đô la Mỹ) bằng nguồn vốn trong nước, tiết kiệm 250 tỷ đồng so với luận chứng kinh tế kỹ thuật được Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt phê duyệt.
Việc hoàn thành đưa vào vận hành công trình đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1 đã giải quyết căn bản tình trạng thiếu điện của miền Nam và miền Trung. Điện thương phẩm tăng trưởng của toàn quốc (từ 5-6% giai đoạn 1990-1992) đã lên đến 18,2% giai đoạn 1993-1997 và tăng trưởng đỉnh điểm là 21% năm 1995, trong đó khu vực miền Trung và miền Nam là 21% giai đoạn 1993-1997 và năm 1995 là 25%.
Đường dây 500 kV đã hợp nhất 3 hệ thống điện Bắc-Trung-Nam hoạt động riêng lẻ trước đây thành hệ thống điện quốc gia thống nhất với Trung tâm Điều độ. Đây là tiền đề quan trọng để cuối năm 1994, chính Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký Quyết định thành lập Tổng công ty Điện lực Việt Nam, một trong những doanh nghiệp lớn của nhà nước được ra đời trong thời kỳ này hoạt động theo hướng xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh của đất nước.
Đường dây 500kV Bắc - Nam mang lại lợi ích kinh tế vượt trội so với các công trình điện lớn khác, là công trình đầu tiên và duy nhất trong ngành điện thu hồi vốn nhanh nhất, tính đến thời điểm đó. Trong vòng chưa đầy 3 năm đã thu hồi được tổng số vốn đầu tư hơn 500 triệu USD, trong khi dự kiến ban đầu là mất 5-10 năm.
30 năm đã trôi qua kể từ ngày đóng điện vận hành tuyến đường dây mạch 1 dài gần 1.500km với 5 trạm biến áp, mang điện từ Bắc vào Nam, đến nay, hệ thống điện quốc gia đã có thêm 2 mạch đường dây 500kV mạch 2 và mạch 3 - với tổng chiều dài hơn 8.000km đường dây, mỗi năm truyền tải hàng chục tỷ kWh điện, đảm bảo an toàn hệ thống điện và an ninh năng lượng quốc gia.
Tổng hợp: Petrotimes, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Wikipedia