Lý do doanh nghiệp tăng tốc phát hành trái phiếu
Tín dụng đã sẵn sàng phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng cao, song mức độ phụ thuộc ngày càng lớn của nền kinh tế vào vốn ngân hàng sẽ dẫn đến nhiều rủi ro. Khi nền kinh tế phục hồi, doanh nghiệp đẩy mạnh phát hành trái phiếu để giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.
Phát hành trái phiếu tăng mạnh trở lại
Theo số liệu Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối tháng 8 năm nay, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 17,14 triệu tỷ đồng, tăng 11,08% so cuối năm 2024. Ước tính năm nay, tín dụng tăng khoảng 20,19%, trong khi mức trung bình nhiều năm trở lại đây là khoảng 14,5%.
Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng thương mại vốn chủ yếu cung ứng vốn ngắn hạn. Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn của ngân hàng vẫn chiếm tới trên 45% tổng dư nợ, gây áp lực lớn lên an toàn thanh khoản và cân đối vốn. Ngân hàng Nhà nước cũng nhiều lần nhấn mạnh cần giảm dần sự lệ thuộc của doanh nghiệp vào tín dụng ngân hàng, hướng tới một cấu trúc tài chính cân bằng hơn. Theo đó, để giảm phụ thuộc tín dụng ngân hàng, nhiều doanh nghiệp đang chủ động xây dựng chiến lược tài chính đa dạng.

Theo báo cáo của FiinGroup, tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong tháng 8 đạt 60.600 tỷ đồng, tăng 33% so với tháng 7.
Lũy kế 8 tháng năm nay, tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp đạt 374.600 tỷ đồng, tăng 43% so với cùng kỳ năm trước, trong đó phát hành ra công chúng tăng mạnh 67%.
Riêng trong tháng 8, nhóm phi ngân hàng huy động được 26.300 tỷ đồng, gấp 4 lần so với tháng 7 và gấp đôi cùng kỳ năm trước. Lũy kế 8 tháng, nhóm này phát hành mới 102.000 tỷ đồng, tăng 28% so với cùng kỳ, cho thấy xu hướng hồi phục tích cực.
Xét theo ngành, các doanh nghiệp bất động sản dẫn đầu với 62.100 tỷ đồng phát hành trái phiếu riêng lẻ từ đầu năm (tăng 32% so với cùng kỳ). Đáng chú ý là Vingroup (18.000 tỷ đồng), Vinhomes (15.000 tỷ đồng), Công ty cổ phần Tư vấn và Kinh doanh Bất động sản TCO (8.000 tỷ đồng), Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Bất động sản Trường Minh (2.500 tỷ đồng), Công ty Cổ phần May - Diêm Sài Gòn (990 tỷ đồng), Công ty Cổ phần Phát triển Bất động sản Văn Phú (250 tỷ đồng), Tổng công ty đầu tư và phát triển công nghiệp (500 tỷ đồng)...
Giảm phụ thuộc vốn tín dụng ngân hàng
Bà Phạm Thị Miền - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu đánh giá thị trường bất động sản Việt Nam - cho rằng, việc huy động vốn qua thị trường vốn như trái phiếu sẽ giúp thị trường bất động sản có dư địa phát triển, để tránh lệ thuộc vào vốn tín dụng ngân hàng có nguy cơ gây ra tình trạng sốc khi có hiện tượng siết chặt tín dụng.
Tuy nhiên, theo bà Miền, quy mô thị trường vốn Việt Nam còn tương đối nhỏ. Đặc biệt, thị trường trái phiếu doanh nghiệp là kênh huy động vốn dài hạn quan trọng, song vẫn còn non trẻ và tiềm ẩn rủi ro. Trong thời gian tới, để thị trường vốn thực sự là trụ cột quan trọng cho hệ thống tài chính quốc gia cần hoàn thiện cơ chế để thị trường cổ phiếu và trái phiếu, bảo hiểm an toàn, minh bạch hơn.
Các sản phẩm tài chính cần được đa dạng hóa kết hợp với xây dựng các Trung tâm tài chính quốc tế để thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội.
Đại diện ngân hàng UOB nhấn mạnh, cần giảm sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào vốn tín dụng ngân hàng cho các nhu cầu trung và dài hạn. Đây cũng là gánh nặng lớn của hệ thống ngân hàng và cũng là một trong những nguyên nhân gây sức ép lên mặt bằng lãi suất.
“Thay vì chỉ trông chờ vào tín dụng, nền kinh tế cần các cơ chế hiệu quả hơn để huy động vốn qua các kênh khác như chứng khoán và trái phiếu. Việc san sẻ gánh nặng huy động vốn dài hạn sang các kênh này mới là giải pháp căn cơ, giúp doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển bền vững”, ngân hàng UOB cho hay
Mặc dù được đánh giá là giải pháp căn cơ giúp doanh nghiệp giảm gánh nặng vay ngân hàng, giảm sức ép lên mặt bằng lãi suất và duy trì tăng trưởng bền vững nhưng kênh huy động vốn này vẫn còn chưa phát huy được vai trò.
Dù tiềm năng lớn, nhưng phát hành trái phiếu không phải là con đường dễ dàng. Doanh nghiệp muốn huy động thành công cần có tình hình tài chính minh bạch, báo cáo kiểm toán rõ ràng, phương án sử dụng vốn khả thi. Trong khi đó, nhà đầu tư ngày càng thận trọng, yêu cầu cao về xếp hạng tín nhiệm và cam kết bảo đảm.
Thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn còn hạn chế về độ sâu, thiếu sự tham gia rộng rãi của nhà đầu tư tổ chức dài hạn như quỹ hưu trí, bảo hiểm. Điều này khiến khả năng hấp thụ vốn chưa cao, thanh khoản thứ cấp còn yếu.
Các chuyên gia khuyến nghị, để thị trường trái phiếu thực sự trở thành kênh dẫn vốn chủ lực, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, khuyến khích xếp hạng tín nhiệm độc lập, mở rộng nhà đầu tư chuyên nghiệp. Doanh nghiệp cũng phải coi minh bạch thông tin là yếu tố sống còn để tạo dựng niềm tin.