Một mặt hàng giúp Việt Nam xếp hạng nhất thế giới về xuất khẩu nhưng nhân lực đi kèm đứng trước bài toán 'lệch nhịp'
Phía sau thành tích rực rỡ ấy của Việt Nam là nghịch lý đáng lo ngại khi chi tiêu cho giáo dục nhân lực lại nằm trong nhóm thấp.
Việt Nam hiện xếp hạng 1 thế giới về xuất khẩu hàng hóa sáng tạo và công nghệ cao, nhưng chỉ đứng thứ 116/139 quốc gia về tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục, đặt ra bài toán cấp thiết về việc nuôi dưỡng nguồn nhân lực kế cận.
Thông tin trên được đưa ra tại Cuộc họp cấp cao về phát triển hệ sinh thái Đổi mới sáng tạo gắn với giáo dục Sở hữu trí tuệ, tổ chức mới đây tại Hà Nội.

Phân tích bức tranh toàn cảnh, ông Rai Pushpendra, cố vấn Sở hữu trí tuệ Quốc tế, chỉ ra xu hướng dịch chuyển mạnh mẽ của hoạt động đổi mới sáng tạo từ phương Tây sang phương Đông. Năm 2014, 60% bằng sáng chế toàn cầu đăng ký tại châu Á, và tăng lên 70% sau một thập kỷ. Ngược lại, tỷ lệ này ở khu vực Bắc Mỹ giảm 17%. Ở các lĩnh vực như nhãn hiệu hay đổi mới sáng tạo, châu Á cũng tăng trưởng vượt trội.
"10 năm qua, số bằng sáng chế có chủ thể cư trú tại Việt Nam tăng đáng kể. Đặc biệt, có những trường hợp sống ở Việt Nam nhưng nộp đơn sáng chế tại Mỹ", ông Rai Pushpendra phân tích.
Dẫn chứng trường hợp cụ thể về khả năng sáng tạo của người Việt, ông nhắc đến nhà sáng chế Đỗ Đức Cường đã góp phần tạo ra máy ATM hiện đại, cải tiến để thiết bị trở nên hiệu quả, thân thiện hơn với người dùng. "Những câu chuyện như vậy có khả năng truyền cảm hứng rất lớn", ông nói.
Trong bức tranh đó, Việt Nam nổi lên như một điểm sáng với những chỉ số ấn tượng. "Việt Nam hiện đứng thứ 44 trên Chỉ số Đổi mới sáng tạo Toàn cầu (GII), nhưng xếp số 1 thế giới về xuất khẩu hàng hóa sáng tạo và công nghệ cao. Đây là một dấu hiệu cực kỳ tích cực", ông Rai nhấn mạnh. Đáng chú ý, 90% hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) tại Việt Nam được thực hiện bởi khu vực tư nhân, trong khi tỷ lệ này ở Mỹ chỉ khoảng 65-70%.
Những chỉ số đó không chỉ phản ánh năng lực của doanh nghiệp FDI mà còn là nền tảng để người Việt tạo ra tài sản trí tuệ có giá trị quốc tế. "Hàng hóa công nghệ cao của Việt Nam được xuất khẩu sang nhiều thị trường, với khoảng 40 nước. Điều này mang lại lợi thế về xuất khẩu và ngoại hối cho Việt Nam", ông Pushpendra thông tin.

Tuy nhiên, tại cuộc họp, bà Altaye Tedla, Giám đốc Học viện WIPO, đã chỉ ra một thực tế đáng lo ngại, nghịch lý "đầu ra" thăng hoa, "đầu vào" hạn chế. Bởi lẽ vẫn còn khoảng trống lớn giữa thành tích sáng tạo và nền tảng nhân lực. Theo bà, dù các chỉ số về đầu ra đổi mới sáng tạo và công nghệ của Việt Nam rất cao (xếp số 1 thế giới về xuất khẩu hàng hóa sáng tạo và công nghệ cao), hạng mục phát triển nguồn nhân lực lại chỉ xếp thứ 70/139.
"Chi tiêu cho giáo dục của Việt Nam hiện xếp 116/139 quốc gia tính theo tỷ lệ GDP. Liệu chúng ta đã đầu tư đủ cho giáo dục và nghiên cứu để tương xứng với thành tích sáng tạo hay chưa", bà Altaye đặt câu hỏi.
Để thu hẹp khoảng cách này, ông Nguyễn Hoàng Giang, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, cho biết Việt Nam đang thúc đẩy việc xây dựng văn hóa sở hữu trí tuệ ngay từ thế hệ trẻ. Ông kỳ vọng sức trẻ và tinh thần sáng tạo sẽ giúp tiềm năng đổi mới được khai thác triệt để, từ đó tạo nền tảng cho Việt Nam bứt phá mạnh mẽ trong kỷ nguyên số.
Ông Giang cũng mô tả một tầm nhìn dài hạn: trong tương lai, mô hình phòng thí nghiệm sáng tạo (IP Labs) sẽ trở nên phổ biến trong các trường học. Đây không chỉ là nơi đào tạo ra những nhà khoa học, mà còn là không gian để học sinh, sinh viên học cách biến ý tưởng của mình thành tài sản có giá trị kinh tế.
“Chúng tôi mong rằng, với việc đưa giáo dục sở hữu trí tuệ vào sớm, Việt Nam có thể hình thành một văn hóa sở hữu trí tuệ mang tính phổ quát – nơi không chỉ chuyên gia hay doanh nhân mà mọi người dân đều hiểu, biết bảo vệ và biết tận dụng tài sản trí tuệ như một công cụ giúp phát triển cá nhân, doanh nghiệp và xã hội”, ông Giang nói.
Hướng đi này cũng nhận được sự đồng tình từ bà Altaye Tedla. Bà nhấn mạnh giáo dục hiện đại phải dẫn dắt thế hệ trẻ đi trọn hành trình, từ việc hình thành ý tưởng, chuyển hóa thành tài sản vô hình, và cuối cùng là tạo ra các sản phẩm hữu hình có sức cạnh tranh trên thị trường.
