Nền kinh tế số 1 Đông Nam Á đủ sức tự cung tự cấp, được ‘bật đèn xanh’ bán gạo cho cả khối ASEAN: Việt Nam có lo mất thị phần?
Chính phủ Indonesia tuyên bố sẵn sàng xuất khẩu gạo sang các quốc gia ASEAN khác, trong đó có Malaysia, nhằm hỗ trợ những nước láng giềng đang gặp khó khăn về nguồn cung lương thực.
Nền kinh tế số 1 Đông Nam Á xuất khẩu 2.000 tấn gạo mỗi tháng sang Malaysia, ra điều kiện gì để xuất khẩu?
Theo lời Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Indonesia Andi Amran Sulaiman, nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á sẵn sàng xuất khẩu gạo - mặt hàng lương thực thiết yếu không chỉ sang Malaysia mà còn sang các nước khác thuộc Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á ASEAN khác (bao gồm Thái Lan, Việt Nam, Singapore, Philippines, Lào, Campuchia, Myanmar và Brunei).

Ông Amran tiết lộ hôm thứ Sáu tuần trước (30/5) rằng Tổng thống Indonesia Prabowo Subianto đã chỉ đạo ông hỗ trợ các quốc gia láng giềng đang cần nguồn cung gạo ổn định. Dù sẵn sàng giúp đỡ nhưng Chính phủ “xứ sở vạn đảo” vẫn đảm bảo họ sẽ chỉ xuất khẩu gạo ra nước ngoài khi đã có đủ nguồn cung cho nhu cầu trong nước.
“Tổng thống đã chỉ thị chúng tôi chuẩn bị việc xuất khẩu gạo nếu một quốc gia thân thiện, đặc biệt là nước láng giềng, có nhu cầu. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ ưu tiên nguồn cung trong nước trước”, ông Amran được hãng tin Antara dẫn lời.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Indonesia cũng tiết lộ rằng các doanh nghiệp đất nước đông dân nhất Đông Nam Á này (hơn 285 triệu dân, theo dữ liệu của Worldometer cập nhật ngày 2/6/2025) và Malaysia đã đạt được thỏa thuận xuất khẩu gạo.
Theo thỏa thuận này, Indonesia sẽ xuất khoảng 2.000 tấn gạo mỗi tháng sang Malaysia. Gạo sẽ được vận chuyển qua tỉnh Tây Kalimantan – tỉnh rộng thứ 3 của Indonesia.
Trước đó, hôm 28/5, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Indonesia Sudaryono xác nhận rằng Tổng thống Prabowo Subianto đã phê duyệt kế hoạch xuất khẩu gạo kể trên.
Ông cho biết các doanh nghiệp Malaysia đã đề nghị nhập khoảng 2.000 tấn gạo mỗi tháng, tuy nhiên khối lượng này có thể được điều chỉnh tùy theo khả năng cung ứng của Indonesia.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Sudaryono cũng lưu ý rằng các cuộc thảo luận với Chính phủ và doanh nghiệp Malaysia đã được tiến hành. Ông cho biết thêm rằng Indonesia hiện đang chờ cơ chế xuất khẩu cùng xác nhận chính thức từ phía Malaysia trước khi bắt đầu giao hàng.
Chỉ trong vòng 5 tháng đầu năm 2025, lượng dự trữ gạo của Indonesia đã vượt mốc kỷ lục 4 triệu tấn nhờ sự gia tăng mạnh mẽ trong thu mua nội địa từ nông dân. Tính đến ngày 30/5, Cơ quan Hậu cần Nhà nước Indonesia (Bulog) đã thu mua được khoảng 2,4 triệu tấn gạo từ nông dân trong nước.
Đối thủ đáng gờm của gạo Việt Nam
Nhờ tự cung tự cấp tốt, Indonesia tuyên bố sẽ không nhập khẩu gạo trong năm 2025 nhờ vào nguồn dự trữ và sản lượng trong nước dồi dào, đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa.
Thực tế, Indonesia chưa nhập khẩu gạo từ Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2025 dù trong năm 2024, thị trường nhập khẩu gạo lớn thứ 2 của nước ta chính là Indonesia. Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, đất nước có đến hơn 17.000 hòn đảo đã nhập khẩu khoảng 1,26 triệu tấn gạo từ Việt Nam năm ngoái, tương đương 746,31 triệu USD, chiếm 13,9% tổng lượng và 13,2% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam trong năm đó. Đây là mức tăng 7,9% về lượng và 16,6% về kim ngạch so với năm 2023.

Đứng đầu vẫn là Philippines, với hơn 4,22 triệu tấn gạo nhập khẩu từ Việt Nam, tương đương 2,61 tỷ USD, chiếm gần 47,6% tổng lượng và 47,1% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam. Các thị trường lớn khác bao gồm Malaysia và Ghana, lần lượt đứng thứ ba và thứ tư về lượng nhập khẩu gạo từ Việt Nam trong năm 2024.
Việc Indonesia đang dư thừa nguồn gạo dự trữ quốc gia (hơn 4 triệu tấn chỉ sau 5 tháng đầu năm 2025) và Chính phủ của Tổng thống Prabowo sẵn sàng bán mặt hàng lương thực thiết yếu này cho các nước ASEAN khác có thể ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp gạo Việt Nam.
Các doanh nghiệp Indonesia có thể sẽ cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp Việt trong lĩnh vực xuất khẩu gạo dù Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) hồi giữa tháng 5 từng dự báo, Việt Nam sẽ trở thành nước giữ vị trí thứ 2 toàn cầu về cả xuất khẩu và nhập khẩu gạo trong hai năm liên tiếp 2025 và 2026.
Dự báo sản lượng gạo của Việt Nam trong niên vụ 2025-2026 sẽ đạt khoảng 26,95 triệu tấn (tính theo gạo xay xát), giảm nhẹ so với mức 27,2 triệu tấn của niên vụ trước đó 2024-2025.
Nguyên nhân chính của sự sụt giảm này là do diện tích trồng lúa bị thu hẹp, chịu ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu và chi phí vật tư đầu vào tăng cao.
Dự kiến trong niên vụ tới, Việt Nam sẽ duy trì sản lượng xuất khẩu gạo ở mức 7,9 triệu tấn. Với con số này, Việt Nam được kỳ vọng tiếp tục nằm trong top 3 quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới cùng với Ấn Độ và Thái Lan.
Tuy nhiên, Việt Nam sẽ đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng từ các nước như Ấn Độ, Pakistan, Myanmar và cả Indonesia. Trong năm 2025, giá gạo của Việt Nam được nhận định khó có khả năng tăng mạnh, do thị trường thế giới dự báo sẽ có nguồn cung dồi dào.
Cũng theo báo cáo mới công bố về thị trường lương thực toàn cầu, USDA dự đoán Indonesia có thể sẽ giảm lượng nhập khẩu xuống còn khoảng 800.000 tấn trong năm 2025, nhờ sự cải thiện mạnh mẽ về nguồn cung trong nước.
Ở chiều xuất khẩu, Việt Nam được Bộ Nông nghiệp Mỹ dự đoán sẽ vượt qua Thái Lan để trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới trong năm 2025, với sản lượng đạt khoảng 7,9 triệu tấn.
Trong khi đó, Thái Lan dự kiến đạt khoảng 7 triệu tấn và Ấn Độ tiếp tục dẫn đầu với 24 triệu tấn. Thành tích này của Việt Nam chủ yếu nhờ nhu cầu ổn định từ thị trường truyền thống là Philippines, cùng với sự quay trở lại của các nhà nhập khẩu lớn từ Trung Quốc.
Theo USDA, dù là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu, Việt Nam được dự báo sẽ nhập khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo trong niên vụ 2025-2026, giảm nhẹ so với mức 4,1 triệu tấn của niên vụ trước.
Hoạt động nhập khẩu chủ yếu tập trung vào một số phân khúc cụ thể như gạo thơm, chất lượng cao từ Campuchia và Thái Lan, phục vụ nhu cầu tiêu dùng cao cấp. Gạo nhập khẩu qua các cửa khẩu biên giới phía Bắc để phục vụ chế biến, tái xuất hoặc tiêu dùng tại chỗ.
Bên cạnh đó, lượng tiêu thụ nội địa dự kiến đạt khoảng 20,65 triệu tấn, gần như không thay đổi so với năm trước. Tồn kho cuối kỳ được dự báo tăng nhẹ lên 3,39 triệu tấn, góp phần ổn định thị trường trong nước và tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu khi có cơ hội.
Theo Jakarta Globe/Antara