Đây là trường hợp duy nhất trong lịch sử Việt Nam – một người Việt thi đỗ Trạng nguyên và làm Tể tướng dưới thời nhà Đường (Trung Quốc).
Khương Công Phụ (731 - 805), tự là Đức Văn, là một Tể tướng người An Nam dưới triều Đường Đức Tông. Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", ông người làng Sơn Ổi, xã Cổ Hiển, huyện Quân Ninh, Ái Châu, quận Cửu Chân, nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Ông được vua Đường Đức Tông (742 - 805) phong chức "Hiệu thư lang", thăng dần đến chức "Gián nghị Đại phu", rồi "Tể tướng".
Từ cậu bé thông minh xứ An Nam trở thành Tể tướng đất Bắc
Theo gia phả của họ Khương ở Yên Định, Thanh Hóa, Khương Công Phụ và Khương Công Phục là con của Khương Công Đĩnh, cháu nội của Khương Thần Dực - Thứ sử vùng đất Ái Châu (tức Thanh Hóa ngày nay). Theo Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Danh nhân Thanh Hoá và sách “Giai thoại Lịch sử Việt Nam”, Khương Công Phụ từ bé đã nổi tiếng thông minh, có trí nhớ tuyệt vời.
Tương truyền, lúc Khương Công Phụ còn nhỏ, bố ông là Khương Công Dĩnh thấy con sáng dạ nên mừng lắm. Ông tìm người giỏi chữ cùng mở cửa hàng thuốc Bắc gần nhà gửi con theo học. Khương Công Phụ tiến bộ rất nhanh khiến thầy giáo phải ngạc nhiên, khen ngợi. Cậu thuộc sách Tứ thư, Ngũ kinh và thấu hiểu nghĩa lý trong Kinh thư, Kinh lễ...
Trước khi được tới kinh đô Trường An của nhà Đường dự thi, Khương Công Phụ phải trải qua rất nhiều kỳ thi sát hạch. Dù về kinh sử hay thơ phú, bài làm của Khương Công Phụ đều hoàn chỉnh xuất sắc. Khương Công Phụ được xếp hàng đầu trong danh sách 8 sĩ tử của 8 quận đất Giao Châu về Trường An dự thi, dưới triều vua Đường Đức Tông (780 - 805).
Tại kỳ thi này, ông đỗ đầu trở thành Trạng nguyên người Việt đầu tiên đỗ đạt ở Trung Quốc. Khương Công Phụ được vua Đường đặc cách phong chức Hiệu thư lang. Sau đó, ông dâng lên vua bài “Kế sách trị nước” với nhiều ý tưởng xuất sắc. Vua Đường Đức Tông rất kính nể.
Bởi có bài chế sách hơn người, vua Đường cho Khương Công Phụ làm Hữu thập di Hàn Lâm học sĩ, kiêm chức Kinh triệu hộ tào tham quân. Sau đó, đường quan lộ của ông thăng dần đến chức Gián nghị Đại phu, rồi Tể tướng - trở thành người Việt duy nhất đỗ Trạng nguyên rồi làm Tể tướng Trung Hoa.
Trong lịch sử có ghi nhận một số vị Trạng nguyên nước ta do tài năng lỗi lạc, học vấn uyên bác, khi sang sứ Trung Quốc cũng được Hoàng đế Trung Quốc phong làm Trạng nguyên, nên người đời gọi là “Lưỡng quốc Trạng nguyên” như: Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Đăng Đạo…
Theo Nguyễn Đổng Chi trong “Việt Nam cổ văn học sử”, trước anh em Khương Công Phụ, nước Việt có Phùng Đái Tri cũng thi đậu ở phương Bắc: “Thơ của Phùng Đái Tri làm cùng người nước Đột Quyết được vua Đường Cao Tổ (618 - 626) hạ lời khen rằng “Hồ Việt nhất gia”.
Tuy nhiên, giữ chức Tể tướng - đứng đầu triều đình Trung Quốc thì xưa nay chỉ có mình Khương Công Phụ mà thôi.
Thẳng thắn can vua, không sợ cường quyền
Trong “Tân Đường thư”, Âu Dương Tu nói Khương Công Phụ là người “có tài cao, mỗi lần tiến tấu rất rõ ràng, Đức Tông rất xem trọng”. Ông vốn tính cương trực, thẳng thắn can gián vua, không sợ cường quyền. Khi làm quan, ông ra sức hoàn thành chức nhiệm của mình.
Sách “Đại Việt sử ký tiền biên” ghi: Mỗi lần yết kiến, ông tâu bày rõ ràng, rành mạch, vua Đường rất trọng ông, dần dần ông làm đến Gián nghị Đại phu, tiến tới chức Đồng trung thư môn hạ Bình Chương sự. Nhờ Khương Công Phụ mà vua Đường nhiều phen thoát được họa lớn. Ông từng khuyên vua Đường giết Chu Thử vì có mưu làm phản. Vua Đường bỏ ngoài tai, nhưng sau đó lời Công Phụ ứng nghiệm. Khi Chu Thử làm phản, vua Đường nghe lời can gián của Công Phụ nên mới không bị hại.
Năm 784, khi binh loạn chưa dứt, thấy vua làm lễ hậu táng xây tháp cho công chúa Đường An, Khương Công Phụ đã can gián, khuyên vua nên chú trọng nuôi quân hưng thịnh để nước được yên. Đường Đức Tông không bằng lòng, đã giáng chức ông xuống là Tả thứ tử, nhận việc trông dạy học cho Thái tử. Tuy nhiên, thời gian này mẹ của Khương Công Phụ mất nên ông được giải chức về quê chịu tang.
Năm Quý Dậu (793), Khương Công Phụ tiếp tục bị biếm chức rồi sai đi biệt giá ở Tuyền Châu. Mãi đến năm 805, sau khi vua Đường Đồng Thuận lên ngôi, nhận thấy lẽ phải trong lời can ngăn của Khương Công Phụ, liền xuống chiếu cử ông làm Thứ sử Cát Châu. Tuy nhiên, vị lão thần tuổi già sức yếu đã qua đời trước khi đến nơi nhậm chức. Thời Đường Hiến Tông, vua đã truy tặng ông chức “Lễ bộ Thượng thư”.
Một lòng hướng về quê hương
Làm quan nơi đất khách quê người, song Khương Công Phụ vẫn da diết nhớ về quê hương. Tình cảm đó thể hiện ở đóng góp vào nền văn học viết Việt Nam. Tác phẩm của ông không nhiều, nhưng bài phú “Bạch vân chiếu xuân hải” là tác phẩm văn chương đầu tiên đạt tới trình độ chuẩn mực ngôn ngữ.
Bài được giới nghiên cứu văn học sử đánh giá là một tác phẩm mở đầu của nền văn học chữ Hán Việt Nam, và là bài sớm nhất trong các bài phú hiện còn của Việt Nam.
Đất Yên Định (Thanh Hoá), quê hương Khương Công Phụ là vùng đất học nức tiếng xứ Thanh, khởi phát nhân tài chẳng kém gì đất Hoằng Hóa sau này. Thế nên trong “Thanh Hóa quan phong” mới có câu khen: "Từ xưa quốc thái linh linh/Tả long hữu hổ kéo quanh chầu về".
Theo Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử "Danh nhân Thanh Hoá", quê hương Khương Công Phụ thuộc thôn 6, làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định. Tại đây, vào năm Cảnh Hưng (1740) đời vua Lê Hiển Tông, và năm 1870 đời vua Tự Đức, đền thờ Khương Công Phụ được xây dựng. Năm 2001, đền được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.