Vị bác sĩ sử dụng ngô, sắn để sản xuất ra ‘nước lọc Penicillin’ cho bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, là một trong 45 vị Giáo sư đầu tiên của Việt Nam được Bác Hồ ký quyết định phong tặng
Khi đã là Viện trưởng của Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Côn trùng, ông cũng không ngần ngại lội suối, vào chuồng bò bắt muỗi để nghiên cứu.
GS.BS Đặng Văn Ngữ là một nhà khoa học đã đặt nền móng cho lĩnh vực nghiên cứu về ký sinh trùng tại Việt Nam. Công trình khoa học "kỳ diệu" của ông - việc chế tạo nước lọc Penicillin - đã đóng góp một phần quan trọng trong việc điều trị và cứu chữa hàng ngàn thương bệnh binh, từng bước góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, ông còn được giới y học trên thế giới biết đến khi phát hiện ra loài sán Clonorchis sinensis có thể ký sinh ở tụy.
Cha đẻ của “Nước lọc Penicillin”
Giáo sư Đặng Văn Ngữ sinh ngày 04/04/1910 tại An Cựu, thành phố Huế, trong một gia đình nhà nho nghèo, coi trọng giáo dục và hiếu học. Ông theo học tại Trường Y - Dược, Đại học Đông Dương và đậu bằng bác sĩ vào năm 1937. Ngay sau khi tốt nghiệp, ông là người Việt Nam đầu tiên được chọn làm trợ lý cho Giáo sư Galliard - người là Chủ nhiệm Bộ môn Ký sinh trùng và đồng thời là Hiệu trưởng Trường Y - Dược vào thời điểm đó.
Năm 1943, ông được cử sang Nhật Bản để học tập và nghiên cứu tại Đại học Tokyo nhờ có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị trong lĩnh vực y học. Trong thời gian đó, nhiều người Pháp, Nhật, Mỹ đều muốn tận dụng tài năng của GS. Đặng Văn Ngữ. Tuy nhiên, ông luôn nhớ rằng mình là người Việt Nam và cần phải đóng góp cho Tổ quốc. Trong quá trình nghiên cứu về nấm kháng sinh, ông đã tiến hành lưu trữ một số giống để sử dụng khi trở về nước. Cùng với khoảng 10 người Việt Nam khác, ông đã thành lập Hội Việt kiều tại Nhật Bản, và được bầu làm Chủ tịch của Hội. Họ đã tổ chức một số hoạt động nhằm đòi công nhận độc lập cho Việt Nam.
Trong thời gian du học tại Nhật Bản, ông đọc được Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau đó, ông quyết định từ bỏ tất cả các công việc nghiên cứu khoa học để trở về nước tham gia vào công cuộc chung của dân tộc.
Tháng 10/1949, GS. Đặng Văn Ngữ đã đi từ Nhật Bản qua Băng Cốc (Thái Lan), xuyên qua Lào và vượt qua dãy núi Trường Sơn để trở về tổ quốc. Cùng với bạn đồng hành, họ mang theo hàng chục kiện hàng bao gồm chai lọ, nồi niêu, bình và ống nghiệm...Người bạn đồng hành của ông, Nguyễn Song Tùng, kể lại rằng ông chưa từng thấy một người vượt qua dãy núi Trường Sơn mang theo hành lý kỳ lạ như thế.
Sau khi trở về từ Nhật Bản, GS. Đặng Văn Ngữ tập trung vào công việc và nghiên cứu sản xuất kháng sinh, mặc dù phải làm việc trong các labo tạm thời, thiếu thốn về nguồn lực và vật chất. Với mục tiêu cao cả là phải nghiên cứu và sản xuất được kháng sinh như trong các Viện mà ông đã từng làm việc tại Nhật, GS. Đặng Văn Ngữ đã đặt tên cho labo của mình là Viện Penicillin. Trong những thời kỳ thiếu thốn đó, ông đã sử dụng ngô, sắn và cả lương khô để tạo điều kiện nuôi cấy nấm, giúp thành công trong việc điều chế Penicillin.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, từ một phòng thí nghiệm đơn giản, ông đã tổ chức sản xuất "nước lọc Penicillin" nổi tiếng. Do tình hình thiếu thốn nghiêm trọng trong kháng chiến, cả về lương thực, thực phẩm, quần áo và đặc biệt là thuốc men cần thiết, đặc biệt là kháng sinh, ông đã có một vai trò quan trọng trong việc sản xuất "nước lọc Penicillin". Điều này đã góp phần quan trọng vào chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Vào Tết Nguyên đán năm 1967, "nước lọc Penicillin" mà bác sĩ Đặng Văn Ngữ nghiên cứu sản xuất đã được sử dụng rộng rãi tại các trạm phẫu thuật ở tiền tuyến. Loại thuốc “thần kỳ” này đã giúp cho 80% thương binh có thể trở về đơn vị mà không phải mất chân, tay và thậm chí thoát khỏi nguy cơ tử vong do nhiễm trùng vết thương.
Ông là một trong ba người sáng lập Trường Đại học Y khoa kháng chiến tại chiến khu Việt Bắc, cùng với các giáo sư Hồ Đắc Di và Tôn Thất Tùng. Sau một thời gian làm việc ở Liên khu IV, vào năm 1955, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định phong tặng danh hiệu Giáo sư, trở thành một trong 45 vị giáo sư đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và được đề cử làm Giáo sư Trường Đại học Y - Dược cùng với các vị khác như Hồ Đắc Di, Đỗ Xuân Hợp, Đặng Vũ Hỷ, Nguyễn Xuân Nguyên, Tôn Thất Tùng...
Tâm huyết trọn đời với nghiên cứu ký sinh trùng
Khi nhắc đến sự nghiệp của GS. Đặng Văn Ngữ, không thể không đề cập đến những đóng góp to lớn của ông trong cuộc chiến chống lại căn bệnh sốt rét.
Với Việt Nam, một đất nước nằm trong khu vực nhiệt đới, thời tiết nóng ẩm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của bệnh sốt rét. Trước đó, một số lượng lớn người dân phải chịu đựng những hậu quả nghiêm trọng từ căn bệnh này. Sự thực này đã thúc đẩy Đặng Văn Ngữ bước vào cuộc nghiên cứu về ký sinh trùng gây ra sốt rét, một công việc mà ông tiến hành cả trong phòng thí nghiệm và trên thực địa, tại các khu vực mà căn bệnh này đang hoành hành. Năm 1957, ông thành lập Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Côn trùng, đồng thời đảm nhiệm vai trò Chủ nhiệm Chương trình tiêu diệt bệnh sốt rét ở miền Bắc.
Đặng Văn Ngữ đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu về ký sinh trùng, từ các vùng miền, thôn xóm cho đến những nơi hẻo lánh như rừng sâu và suối nguồn. Ngay cả khi ông đã trở thành lãnh đạo cấp cao tại Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương và Bộ môn Ký sinh trùng của Đại học Y Hà Nội, ông vẫn thường xuyên tham gia vào công việc tại phòng thí nghiệm hoặc ra thực địa để nghiên cứu. Ông không ngần ngại lội ruộng để tìm kiếm nguyên nhân gây bệnh cho nông dân, thậm chí uống nước suối mà không phàn nàn một lời.
“Thanh toán” bệnh sốt rét là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong sự nghiệp của GS. Đặng Văn Ngữ. Theo lời kể của PGS. TS Phạm Văn Thân, GS. Đặng Văn Ngữ đã trực tiếp chỉ đạo chương trình Tiêu diệt bệnh sốt rét trên toàn miền Bắc trong giai đoạn từ năm 1962-1964. Đến năm 1964, tỷ lệ mắc bệnh sốt rét ở nước ta đã giảm xuống còn 20% (trước đó có những vùng miền núi, nông thôn tỷ lệ sốt rét chiếm tới 90-100% dân số).
Vào tháng 3/1967, GS. Đặng Văn Ngữ cùng với 12 y bác sĩ khác đã đi vào chiến khu Trị - Thiên Huế (đi B) để nghiên cứu về vaccine chống sốt rét. Mặc dù gặp phải sự ngăn cản của các cấp lãnh đạo, ông vẫn kiên quyết thực hiện kế hoạch đi B, với quyết tâm xóa bỏ căn bệnh đang gây ra nhiều thiệt hại cho người dân và quân đội. Và vào chuyến công tác đó, vị giáo sư đáng kính đã hy sinh trong một trận Mỹ rải bom B-52 ác liệt.
Đặng Văn Ngữ qua đời khi mới chỉ hơn 50 tuổi, trong những giây phút đang cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu về cách phòng và điều trị sốt rét cho người dân trên đất nước. Thời điểm này, vaccine chống sốt rét do ông và đồng nghiệp điều chế từ vi khuẩn ở tuyến nước bọt của muỗi, đã cho thấy những tiến triển đáng kể trong các thử nghiệm trên người. Đáng tiếc, tất cả những công trình nghiên cứu và tâm huyết của ông đành dang dở.
Vào năm 2023, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã chính đưa mắt vaccine chống thoa trùng sốt rét vào sử dụng cho người để phòng sốt rét. Công trình nghiên cứu của GS.BS Đặng Văn Ngữ, mặc dù chưa hoàn thiện nhưng vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và ứng dụng thực tiễn. Những hướng đi tiên phong này được tiếp tục phát triển bởi các học trò và đồng nghiệp của ông. Các kết quả nghiên cứu không chỉ hữu ích trong việc phòng và điều trị sốt rét mà còn có thể áp dụng cho nhiều loại bệnh khác như sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản, Zika,...
Tên tuổi của GS. Đặng Văn Ngữ đã trở nên vô cùng nổi tiếng khắp cả nước, được ghi nhớ qua việc đặt tên cho nhiều đường phố, trường học và bệnh viện. Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương cũng đã lấy tên của ông để đặt cho hai đơn vị chủ chốt là Trường Cao đẳng Y tế Đặng Văn Ngữ và Bệnh viện Đặng Văn Ngữ. Tên của ông cũng được đặt cho nhiều trường học, đường phố tại Hà Nội, Huế, Quảng Bình, Thành phố Hồ Chí Minh... và nhiều tỉnh, thành phố khác.
Dù “lá rụng về cội” đã 57 năm nhưng những "di sản" của GS. BS Đặng Văn Ngữ về nhân cách của một nhà khoa học, một người thầy, một người cha, cùng những công trình khoa học của ông vẫn tiếp tục tồn tại và giữ nguyên giá trị, sẽ mãi mãi trường tồn.
Theo: Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương, Wikipedia