Việt Nam có pho tượng giống người thật đến nỗi từng bị yêu cầu kiểm tra hộ chiếu khi qua cửa khẩu, đang được 'bảo vệ' tại ngôi chùa hơn 600 tuổi
Theo đó, pho tượng này đã được phục dựng theo tỷ lệ 1:1, giống y người thật từ sợi gân tay, vết đồi mồi, sợi lông mày, cọng tóc...
Bức tượng giống thật đến từng cọng tóc, sợi lông mày
Gian Quan Âm của chùa Quán Sứ - ngôi chùa hơn 600 tuổi tại Hà Nội hiện đang trưng bày pho tượng sáp Hòa thượng Thích Thanh Tứ, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam với kích cỡ y như người thật. Pho tượng là thành quả từ tâm nguyện của các tăng ni và phật tử Thái Lan, những người đã ấp ủ ý tưởng này từ năm 2008, khi Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc được tổ chức tại Hà Nội. Trong dịp đó, đoàn Phật giáo Thái Lan đã đến thăm chùa Quán Sứ và diện kiến Hòa thượng Thích Thanh Tứ.
Tuy nhiên, để tạo nên một pho tượng chân thực, tái hiện từng chi tiết từ làn da, mái tóc đến sợi gân tay và nếp nhăn như hiện tại là nhờ tâm huyết của Thượng tọa Thích Thanh Tuấn, Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Là đệ tử xuất sắc của Hòa thượng Thích Thanh Tứ, Thượng tọa Thích Thanh Tuấn đã trực tiếp đến Thái Lan nhiều lần trong suốt một năm để giám sát và tham gia vào quá trình hoàn thiện bức tượng.
Chia sẻ với Báo Pháp luật, Thượng tọa Thích Thanh Tuấn cho biết: “Tôi đã phải đến nhiều cơ sở làm tượng nổi tiếng ở Thái Lan để đặt làm tượng về ngài. Khi đến cơ sở đầu tiên, họ đã đắp cốt đất nhưng không đạt, tôi lại phải tìm đến các cơ sở khác. Phải đến cơ sở thứ ba họ mới thực hiện được theo nguyện vọng tôi đưa ra. Pho tượng được phục dựng theo tỉ lệ 1:1”.
Quá trình tạo tác tượng sáp đòi hỏi sự tỉ mỉ và chính xác cao qua nhiều công đoạn phức tạp. Các nghệ nhân Thái Lan đã sử dụng những bức ảnh có kích thước chuẩn của Hòa thượng Thích Thanh Tứ lúc sinh thời để đắp cốt đất. Sau khi hoàn thiện phần cốt đất, một lớp nhựa composite bóng được phủ lên trên. Bước cuối cùng là phủ sáp hóa học, để khô trong khoảng 12 giờ trước khi loại bỏ cốt đất. Khi đó, các nghệ nhân tiếp tục chỉnh sửa các chi tiết nhằm đạt độ hoàn thiện tối đa.
Đặc biệt, những sợi tóc trên pho tượng sáp của Hòa thượng Thích Thanh Tứ là tóc thật của ngài khi còn sống. Thượng tọa Thích Thanh Tuấn đã đích thân cắt và giữ gìn những sợi tóc này như một kỷ vật thiêng liêng. Trong quá trình chế tác, các nghệ nhân tại Thái Lan đã sử dụng kim để gắn từng sợi tóc lên tượng, tạo nên độ chân thật đến từng chi tiết. Nhờ đó, nhiều Phật tử khi chiêm bái pho tượng đều cảm nhận như Đại Trưởng lão đang hiện diện trước mặt.
Quá trình đưa pho tượng về Việt Nam cũng không hề đơn giản. Đoàn rước buộc phải vận chuyển tượng bằng ô tô qua Lào và nhập cảnh qua cửa khẩu Cầu Treo, Hà Tĩnh, vì không thể đi bằng đường hàng không. Thượng tọa Thích Thanh Tuấn chia sẻ, khi xe qua cửa khẩu Lào, nhân viên hải quan yêu cầu dừng lại vì nhìn thấy “một vị Hòa thượng ngồi tụng kinh” và thắc mắc: “Tại sao có 5 người mà chỉ có 4 hộ chiếu”. Sau khi giải thích, họ vô cùng bất ngờ khi biết vị Hòa thượng ngồi trên xe thực chất chỉ là bức tượng sáp.
Nói về lý do chọn chất liệu sáp, Đại đức Thích Thanh Tuấn cho biết: “Tượng sáp có độ chân thật, chính xác nhiều hơn so với việc làm tượng bằng đồng hoặc đá. Chính vì vậy Đại đức quyết định làm tượng bằng sáp để tưởng nhớ đến người”.
Vị Hòa thượng hết mình vì sự nghiệp cứu quốc
Hòa thượng Thích Thanh Tứ, thế danh Trần Văn Long, sinh năm 1927 tại thôn Miêu Nha, xã Song Mai, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, trong một gia đình nông dân nghèo. Mồ côi mẹ từ năm 3 tuổi, Hòa thượng lớn lên trong sự chăm sóc của cha, người thường đưa ông lên chùa làm công quả, gieo duyên với Phật pháp từ nhỏ.
Năm 6 tuổi, ông được Ni Trưởng Thích Đàm Ân trụ trì chùa Nho Lâm, xã Mai Động, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên nhận nuôi và cho đi học. Đến năm 12 tuổi, ông thụ giáo Hòa thượng Thích Thanh Hồ tại chùa Đống Long, nơi ông thụ giới Sa-di vào năm 1939 và Đại giới Tỷ-khiêu vào năm 1947.
Năm 1945, Hòa thượng tham gia phá kho thóc Nhật cứu đói và vận động nhân dân giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám. Sau đó, ông gia nhập Ban Chấp hành Phật giáo Cứu quốc Hưng Yên, tích cực vận động tăng ni, Phật tử tham gia kháng chiến. Từ năm 1950, ông tham gia lực lượng vũ trang tỉnh đội Hưng Yên, cổ vũ nhân dân lao động sản xuất ủng hộ kháng chiến.
Hoạt động cách mạng của Hòa thượng khiến thực dân Pháp liệt ông vào danh sách “đặc biệt quan tâm”. Năm 1951, ông bị bắt, giam cầm và tra tấn qua nhiều trại giam nhưng không khuất phục. Trước áp lực từ dân chúng và tín đồ, Pháp buộc phải thả ông vào năm 1953.
Sau năm 1954, Hòa thượng tập trung khôi phục Phật giáo miền Bắc, góp phần vận động thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Với vai trò Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam, ông đóng góp lớn trong đào tạo tăng sĩ, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa Phật giáo, đồng thời vận động tín đồ tham gia xây dựng xã hội, phục hồi kinh tế, bảo tồn di tích lịch sử.
Những đóng góp của Hòa thượng được Nhà nước ghi nhận bằng nhiều danh hiệu cao quý như Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Nhì, Huân chương Độc lập hạng Nhì và Huân chương Đại đoàn kết dân tộc.
Cuộc đời Hòa thượng Thích Thanh Tứ là minh chứng sống động cho tinh thần "Phật pháp bất ly thế gian giác" và truyền thống yêu nước của Phật giáo Việt Nam. Ông không chỉ là nhà tu hành mẫu mực mà còn là người hết lòng phụng sự dân tộc, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử đạo pháp và đất nước.
Ảnh: Sưu tầm Internet