Bên trong nghĩa địa tàu ngầm hạt nhân, nơi lưu trữ 130 thùng chứa lượng phóng xạ nguy hiểm
Những chiếc tàu ngầm hạt nhân sau khi hết giá trị sử dụng sẽ được tập kết, tiềm ẩn những mối nguy hại khủng khiếp cho loài người.
Mỹ được biết đến là một trong những cường quốc trên thế giới về sản xuất vũ khí hạt nhân. Đội ngũ Hải quân của quốc gia này đã nghiên cứu và sản xuất hàng ngàn chiếc tàu ngầm hạt nhân để phục vụ cho các hoạt động quân sự trong nước cũng như cung cấp ra nước ngoài. Bên cạnh nguồn lợi nhuận khổng lồ từ ngành công nghiệp vũ khí, quốc gia này cũng phải chịu những hậu quả khó lường mà chính những sản phẩm này gây ra.
Nguồn gốc của nơi tập kết thứ chất thải chết người
Năm 1954, Hải quân Mỹ đưa vào hoạt động tàu ngầm hạt nhân đầu tiên là USS Nautilus. Năng lượng hạt nhân cách mạng hóa tàu ngầm theo hai cách. Đầu tiên, tàu ngầm chạy nhờ năng lượng nguyên tử có tầm hoạt động không giới hạn, cho phép tàu chạy tới bất cứ nơi đâu trong đại dương mà không cần cân nhắc về nhiên liệu. Lò phản ứng trên tàu ngầm có thể hoạt động gần hai thập kỷ với nguồn cung cấp nhiên liệu hạt nhân ban đầu và tiếp nhiên liệu khi ở ụ khô là một tùy chọn.
Lợi thế thứ hai của tàu ngầm hạt nhân nằm ở độ bền dưới nước. Tàu ngầm diesel phải chạy bằng pin khi ở dưới nước do không có đủ không khí để động cơ diesel hoạt động. Bộ pin này phải sạc định kỳ và cách duy nhất để tàu ngầm làm điều đó là vận hành động cơ. Kết quả là tàu ngầm diesel - điện phải thường xuyên nhô lên mặt nước hoặc dùng ống kín đáo để lấy không khí sạch.
Trong chiến tranh, việc xuất hiện trên mặt nước định kỳ để phục vụ cho quá trình nạp nhiên liệu đã trở thành một nhược điểm lớn đối với tàu lặn diesel - điện. Vì vậy, tới năm 1959, Hải quân Mỹ đưa vào hoạt động USS Blueback, tàu ngầm diesel - điện cuối cùng. Từ sau đó, mọi tàu ngầm của Mỹ đều chạy bằng năng lượng hạt nhân, có thể lướt dưới nước với vũ khí hạt nhân mà không bị phát hiện.
Trong hơn 4 thập kỷ qua, điều này dẫn đến một nguồn tàu ngầm hạt nhân ngừng hoạt động gia tăng đều đặn. Trong quá trình dỡ bỏ, nhiên liệu hạt nhân bị gỡ ra và chuyển tới Phòng thí nghiệm quốc gia Idaho, để lại lò phản ứng bị ô nhiễm nặng. Tàu ngầm được cắt thành nhiều đoạn, loại bỏ phần chứa lò phản ứng, bao gồm vỏ thép, tấm chắn chì của lò và hợp kim kim loại chống bức xạ và nhiệt độ cao.
Quá trình dỡ bỏ diễn ra tại xưởng đóng tàu hải quân Puget Sound ở Bremerton, Washington. Sau đó, những "thùng khô" hình trụ đã cắt gọn gàng trải qua hành trình cuối cùng bằng phà xuôi theo vùng ven biển, qua sông Columbia. Chúng được tháo dỡ ở cảng Benton và chở bằng xe tải tới Hanford. Sau khi tới Hanford, các thùng được chuyển vào Trench 94, một rãnh lộ thiên dài 305m. Từ đây, nơi được mệnh danh là nghĩa địa của những chiếc tàu ngầm hạt nhân cũ đã được hình thành trong suốt nhiều thập kỷ qua.
Trở thành mối lo cho nhiều thế hệ sau
Theo Popular Mechanics, hiện đang có khoảng hơn 130 thùng bê tông với lượng bức xạ nguy hiểm được lưu trữ ở Trench 94, và số lượng sẽ tăng lên trong vài thập kỷ tới. Mỗi thùng bê tông là tàn tích của một con tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân, được sắp xếp gọn gàng thành 5 hàng.
Bên trong các thùng bê tông này đều chứa loại chất phóng xạ có khả năng tồn tại đến 300 năm, chịu được những biến đối từ môi trường khắc nghiệt nhất. Tuy nhiên, cũng như với hầu hết nhiên liệu hạt nhân, chúng thực sự là một thách thức đối với các thế hệ tương lai.
Mỗi thùng chứa khoảng 25.000 curie bức xạ và có thế giết chết con người chỉ sau một lần tiếp xúc. Bên cạnh đó, phải mất đến khoảng 1.000 năm, số lượng curie giảm dần do sự phân rã phóng xạ nhưng con số này là rất nhỏ. Chưa kể, số lò phản ứng được đưa về Trench 94 sẽ càng nhiều theo thời gian. Ước tính, Trench 94 sẽ có thêm khoảng 50 thùng mới trong 20 năm tới.
Ngoài Trench 94 của Mỹ, mỗi quốc gia có tàu ngầm hạt nhân sẽ có địa điểm riêng để chứa nhiên liệu đã ngừng hoạt động.