Chủ tịch VCCI: 'Công nghiệp khai khoáng phát triển không tương xứng tiềm năng'
Xét về chỉ số vốn thiên nhiên, chúng ta đứng thứ 79 thế giới. Các loại khoáng sản mà Việt Nam có thế mạnh là antimon, bauxite, crome, than, mangan, dầu khí, phốt pho, đất hiếm…
Tỷ trọng xuất khẩu khoáng sản thô còn lớn
Theo thống kê năm 2022, lĩnh vực khai khoáng đóng góp khoảng 2,8% GDP, đứng khoảng thứ 70 trên thế giới. Tuy nhiên, tỷ trọng xuất khẩu khoáng sản thô còn khá lớn, chiếm khoảng 8% tổng kim ngạch thương mại.
Đóng góp của ngành công nghiệp khai khoáng trong nền kinh tế trong thời gian qua là không thể phủ nhận. Song ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thẳng thắn chỉ rõ công nghiệp khai khoáng của Việt Nam chưa phát triển hết tiềm năng. Chúng ta mới chỉ tập trung khai thác mà chưa có đủ công nghệ cũng như năng lực để đầu tư chế biến nhiều loại khoáng sản kim loại.
Luật Khoáng sản 2010 đã trải qua hơn 13 năm thi hành, mang lại nhiều kết quả tích cực nhưng cũng có nhiều vấn đề phải sửa đổi, bổ sung. |
Một số loại khoáng sản mang tính chiến lược, như đất hiếm vẫn chưa được khai thác để mang lại hiệu quả kinh tế, đối ngoại cho đất nước. Việc khai thác xuống sâu, khai thác ngầm nhiều loại khoáng sản còn gặp nhiều khó khăn.
Năm 2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 10-NQ/TW về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là văn bản quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể chế đối với công nghiệp khai khoáng của chúng ta.
Nghị quyết đặt ra nhiều mục tiêu, đến năm 2045 Việt Nam hình thành nền công nghiệp khai khoáng tiên tiến, hiện đại gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh tương đương với các nước tiên tiến khu vực châu Á. Để làm được điều này thì công tác xây dựng thể chế là đặc biệt quan trọng.
Theo Chủ tịch VCCI, Luật Khoáng sản 2010 đã trải qua hơn 13 năm thi hành, mang lại nhiều kết quả tích cực nhưng cũng có nhiều vấn đề phải sửa đổi, bổ sung.
Cụ thể như vấn đề đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Đây là nội dung được đưa vào Luật Khoáng sản năm 2010 và được kỳ vọng sẽ giúp tăng cường tính minh bạch của lĩnh vực này.
Tuy nhiên, qua 13 năm triển khai, số lượng mỏ khoáng sản được đấu giá rất thấp. Ở cấp Trung ương chỉ có 10 mỏ được đấu giá trên tổng số 441 giấy phép được cấp. Ở địa phương có 827 trường hợp đấu giá trên hơn 3000 giấy phép. Trong khi đó, giá trúng đấu giá luôn cao hơn từ 20 đến 40% giá khởi điểm, có trường hợp cao gấp 2-3 lần.
Bên cạnh đó, vấn đề tài chính về khoáng sản cũng là nội dung cần được tháo gỡ. Theo ông Phạm Tấn Công, vấn đề tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thu trước khi mỏ đi vào hoạt động, lại dựa trên số liệu ước đoán từ kết quả thăm dò, đang đẩy toàn bộ rủi ro về phía doanh nghiệp, khiến các dự án khoáng sản đã nhiều rủi ro lại càng thêm rủi ro.
Sự thiếu minh bạch và không ổn định của các nghĩa vụ tài chính khác như thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường cũng làm các doanh nghiệp, ngân hàng do dự khi cân nhắc bỏ vốn vào các dự án khoáng sản quy mô lớn, hoặc các dự án đi kèm chế biến.
Ngoài ra, việc bảo đảm quyền tài sản đối với khai thác khoáng sản cũng là vấn đề mà nhiều doanh nghiệp quan tâm. Vấn đề này bao gồm nhiều nội dung như: quyền thế chấp quyền khai thác khoáng sản, sản lượng được phép khai thác, giám sát sản lượng để tránh thất thu thuế phí…
>>Sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm tiếp tục xu hướng tích cực
Doanh nghiệp lo thuế chồng thuế
Góp ý về Dự thảo Luật Khoáng sản hiện tại, một số ý kiến cho rằng, nên tính và thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế hàng năm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản.
Doanh nghiệp lo thuế chồng thuế. |
Cụ thể, theo ông Phạm Nguyên Hải – Giám đốc Pháp chế, Công ty TNHH Khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo (Thành viên của Tập đoàn Masan), tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là một yếu tố cấu thành lên nguồn thu cho ngân sách Nhà nước từ hoạt động khoáng sản, và sẽ được nhà nước huy động sử dụng để tăng cường cho công tác điều tra, đánh giá khoáng sản biển, khoáng sản ẩn sâu, thăm dò khoáng sản.
Ở khía cạnh công cụ kinh tế, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là khoản tiền tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải trả cho Nhà nước để được thực hiện đặc quyền khai thác, thu hồi khoáng sản.
Tuy nhiên, ông Phạm Nguyên Hải cho rằng, vấn đề hiện nay là nếu tính cả tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thì một doanh nghiệp hoạt động khoáng sản phải đóng rất nhiều các loại thuế và phí khác nhau, trong đó nhóm các loại thuế bao gồm thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng; nhóm các loại phí và lệ phí bao gồm phí khai thác và sử dụng tài liệu địa chất, khoáng sản, phí điều tra, thăm dò khoáng sản (hoàn trả cho nhà nước), phí bảo vệ môi trường và phí bảo vệ môi trường đối với nước thải đối với cơ sở khai thác chế biến khoáng sản; và nhóm các loại tiền nộp ngân sách khác bao gồm tiền ký quỹ phục hồi môi trường, tiền thuê đất, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Đáng chú ý là về bản chất, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên có tính chất giống nhau vì cùng đánh vào một đối tượng là khoáng sản nguyên khai chưa qua chế biến và dựa trên những căn cứ, phương pháp tính toán tương tự nhau, trong đó giá tính thuế tài nguyên đồng thời được dùng làm căn cứ để xác định giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Các quy định về xác định và thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản hiện nay đã tạo ra hiện tượng "thuế chồng thuế", khiến rất nhiều doanh nghiệp hoạt động khoáng sản rơi vào tình cảnh khó khăn, kể cả các doanh nghiệp ở quy mô lớn.
Để khắc phục tình trạng này, ông Phạm Nguyên Hải - đại diện Công ty Núi Pháo đề xuất, nên tính và thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế hàng năm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản.
Vụ đấu giá mỏ cát 1,2 tỷ lên 370 tỷ, Chủ tịch Quảng Nam lệnh tiếp tục điều tra
Họp Quốc hội: Đơn giản hóa thủ tục khai thác khoáng sản làm vật liệu san lấp