Lâu nay, hai từ thái giám không xa lạ với nhiều người nhưng đằng sau đó là những câu chuyện hé lộ cuộc đời bi ai của một tầng lớp người trong xã hội phong kiến.
Cách tuyển chọn Thái giám ngày xưa
Dưới triều Nguyễn, việc tuyển chọn thái giám vào cung chủ yếu từ hai nguồn. Nguồn thứ nhất là những cậu bé sinh ra đã không có bộ phận sinh dục nam giới, không có khả năng sinh con đẻ cái (gọi là ông Bộ). Cho đến nay, tại nhiều vùng nông thôn Thừa Thiên Huế vẫn còn câu tục ngữ "Vui như làng đẻ được ông Bộ".
Theo sách "Lễ tết ăn chơi trong cung Nguyễn", dưới thời Nguyễn, khi một gia đình nào sinh ra được "ông Bộ" phải khai báo với quan lại địa phương để họ báo với bộ Lễ. Từ đây, đứa trẻ sẽ được nuôi nấng theo nghi lễ hoàng cung, lớn lên được đưa vào Đại Nội làm thái giám. Làng nào sinh được "ông Bộ" được xem như một điềm tốt, cả làng đó sẽ được bổng lộc vua ban. Tuy nhiên, những đứa trẻ bất lực bẩm sinh thường khó phát hiện và không an toàn tuyệt đối vì tính cách của những con người khiếm khuyết này đôi khi bất thường.
Vì vậy, việc tuyển chọn tới từ nguồn thứ hai sau đây phổ biến hơn. Đó là những gia đình sinh con nhưng hoàn cảnh quá nghèo khổ, tự nguyện cho con làm thái giám sau khi đã trải qua đau đớn để loại bỏ bộ phận sinh dục nam. Những người này chấp nhận thân phận không đàn ông cũng chẳng đàn bà, sống phục vụ trong Hoàng cung trọn đời.
Sau ngày vào cung, thái giám chủ yếu sống trong Tử Cấm Thành triều Nguyễn, một số ít được cử lên các lăng tẩm để hầu hạ những bà vương phi góa bụa. Dưới thời vua Minh Mạng, không còn được xếp vào cửu phẩm triều đình như các quan lại khác, mà được chia ra 5 hạng riêng gồm Thủ đẳng, Thứ đẳng, Trung đẳng, Á đẳng, Hạ đẳng với khoảng 60 người. Mỗi bậc được cấp tiền, gạo khác nhau.
Thời vua Duy Tân (1912) quy định lương của Thủ đẳng: Quảng vụ 540 đồng, Điền sự 384 đồng; Thứ đẳng: Kiếm sự và Phụng nghi 324 đồng; Trung đẳng: Thừa vụ 376 đồng, Điền thắng 264 đồng; Hạ đẳng 180 đồng.
Trang phục của thái giám được ấn định riêng, gồm lễ phục và thường phục. Lễ phục được may bằng lụa màu, dành cho thái giám có đẳng cấp cao, màu xanh da trời cho thái giám có đẳng cấp thấp. Trước ngực áo thêu hình bông hoa màu lục trên nền đỏ, mũ không có cánh chuồn. Thường phục của thái giám là áo khoác đen, quần trắng, đầu bít khăn đen.
Theo sử sách ghi lại, thái giám thường có nét mặt nhợt nhạt, vóc dáng mảnh mai, gầy guộc, giọng nói lảnh lót, điệu bộ rụt rè, tính tình nhút nhát do cấu tạo cơ thể, sinh lý không bình thường, sống trong cung cấm, ít tiếp xúc ánh sáng mặt trời.
Số thái giám phục dịch trong Đại Nội có khoảng 60 người. Một số thái giám được cắt cử lên hương khói các lăng tẩm. Mỗi lăng tẩm sẽ có 3 thái giám lo công việc tại đây.
Sự hạn chế quyền lực dưới triều Nguyễn
Dù có thân phận thấp kém, sống cuộc đời nô bộc nhưng một số thái giám nếu có đẳng cấp cao, được hoàng đế tin tưởng vẫn có quyền lực nhất định. Các nữ quan hoàng cung đều làm việc dưới quyền của thái giám. Do đó, nhiều thái giám hay được các bà đút lót quà bánh để được vua sủng ái.
Vốn là người sắp đặt, lo toan cuộc sống hàng ngày cho nhà vua, nên vào ban đêm, sau giờ vua làm việc, đọc sách, làm thơ, dự yến… thái giám sẽ đệ lên vua một cái khay đựng thẻ ghi tên những bà phi vua muốn ân sủng. Sau khi vua chọn xong, thái giám có bổn phận mang tấm thẻ vua chọn đến treo trước cửa phòng và báo cho vị vương phi đó chuẩn bị tắm rửa, trang điểm, hầu hạ nhà vua.
Dù việc chọn người do vua quyết định nhưng các thái giám vẫn có những mánh khóe để "buộc" vua chọn những bà phi theo ý họ. Chính từ đây làm nảy sinh quyền lực ngầm của thái giám. Bà nào muốn được vua ân sủng đều phải "qua cửa" của thái giám, nhiều bà đã đem vàng bạc, châu báu, vải vóc để đút lót cho thái giám nhằm được gần gũi vua nhiều hơn, có cơ hội sinh hoàng tử, công chúa, nâng tầm địa vị bản thân. Có nhiều bà do khinh thường thái giám nên suốt thanh xuân cô quạnh trong cung cấm, không một lần được thấy mặt Thiên tử.
Thái giám là những người có cơ hội tiếp xúc thân cận nhất với vua trong hậu cung, là người biết và hiểu rõ đời tư của Thiên tử. Vì vậy, để tránh sự lộng quyền của các thái giám trong chốn cung cấm, vào ngày 1/12 năm Minh Mạng thứ 17 tức ngày 17/3/1836, vua Minh Mạng đã ra một chỉ dụ nhằm chấm dứt những sự lạm dụng thái quá của các thái giám dưới triều Minh Mạng. Từ đó, các thái giám sống ngoài lề so với các quan chức khác trong cung. Họ không được tham dự chuyện triều chính, chỉ phục vụ nội cung, lo hầu hạ đời sống thường nhật của hậu cung.
Đây là bài học nhà Nguyễn rút ra sau vụ việc của Tả quân Lê Văn Duyệt. Ông vốn xuất thân dưới trướng của vua Gia Long, có công lớn trong khôi phục vương triều, sau lại giữ chức Tổng trấn thành Gia Định. Lợi dụng quyền bính trong tay, có nhiều việc Lê Văn Duyệt quyết định ngoài ý muốn của vua, điều đó đã làm vua Minh Mạng lấy làm khó chịu và bất bình. Đây cũng là nguồn gốc dẫn tới một cuộc binh biến lớn sau này.
Số phận hẩm hiu, bi thương của thái giám triều Nguyễn
Sống và làm việc trong Tử Cấm Thành nhưng khi đau yếu, bệnh tật, thái giám phải ra ở và chữa bệnh tại cung Giám Viện ở phía Bắc Hoàng thành Huế. Nếu khỏe mạnh sẽ được tiếp tục công việc, nếu bệnh nặng phải ở đó chờ chết, không được vào Đại Nội hoặc các lăng tẩm khi chưa hết bệnh.
Ý thức được số phận hẩm hiu của mình, không có con cái nối dõi, một số thái giám trong cung triều Nguyễn đã nhận con nuôi, một số quyên góp tiền bạc, hiến ruộng đất, tư sửa chùa Từ Hiếu ở kinh thành Huế. Đây được xem như là ngôi chùa của thái giám, nơi thờ phụng họ sau khi qua đời. Trong khuôn viên chùa Từ Hiếu hiện nay vẫn còn khoảng 20 mộ phần của thái giám có công với chùa. Những ngôi mộ phần này đều được dựng bia ghi tên, chức tước của người thái giám khi còn sống.