Sau hơn 4 năm thành lập và hoạt động, dưới sự chỉ đạo thường xuyên, liên tục của lãnh đạo Đảng và nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và các doanh nghiệp trực thuộc, đã cho thấy các kết quả bước đầu khả quan. Đây cũng là đánh giá chung, thống nhất của các cơ quan, chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình tổng kết việc thực hiện kết luận số 40-TB/TW của Bộ Chính trị về thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, định hướng về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN; trong đó có việc đổi mới mô hình thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Trước khi thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, các Bộ, địa phương vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước, vừa làm đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội gắn với đổi mới, hội nhập quốc tế sâu, rộng thì phương thức này bộc lộ một số bất cập như: Việc chưa tách bạch giữa ban hành chính sách và quản lý doanh nghiệp dẫn tới tình trạng "vừa đá bóng, vừa thổi còi", chưa tạo môi trường bình đẳng, công bằng đối với mọi thành phần doanh nghiệp; việc kiểm tra, giám sát còn buông lỏng, không kịp thời ngăn chặn sớm dẫn tới nhiều vi phạm tại các DNNN thời gian qua; các bộ quá tải công việc ảnh hưởng chất lượng kiến tạo chính sách, cải thiện môi trường kinh doanh và góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, Nghị quyết số 12-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã xác định giải pháp khắc phục các bất cập này, theo đó chủ trương tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước đối với DNNN, sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các Bộ, địa phương đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp và thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với DNNN.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Trung ương, các kết luận của Bộ Chính trị (số 103-KL/TW ngày 29/9/2014 và số 40-TB/TW ngày 14/9/2017), các Nghị quyết của Quốc hội (số 142/2016/QH1 ngày 12/04/2016, số 48/2017/QH14 ngày 10/11/2017 và số 60/2018/QH14 ngày 15/6/2018) về việc thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/2/2018 thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và Nghị định số 131/2018/NĐ-CP ngày 29/9/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là Ủy ban).
Theo đó, Ủy ban là cơ quan thuộc Chính phủ; thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với 19 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (trước đây thuộc 5 bộ) với tổng vốn chủ sở hữu chiếm gần 63% và tổng tài sản chiếm gần 65,3% so với toàn bộ DNNN trong cả nước.
Sau hơn 4 năm thành lập và hoạt động, dưới sự chỉ đạo thường xuyên, liên tục của lãnh đạo Đảng và nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của Ủy ban và các doanh nghiệp trực thuộc đã cho thấy các kết quả bước đầu khả quan. Đây cũng là đánh giá chung, thống nhất của các cơ quan, chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình tổng kết việc thực hiện kết luận số 40-TB/TW của Bộ Chính trị về thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đã tách chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp của 5 Bộ để các bộ tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước; đảm bảo việc ban hành cơ chế, chính sách pháp luật kịp thời, hiệu quả và nâng cao chất lượng thực hiện quản lý nhà nước.
Thứ hai, hình thành một cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với vốn nhà nước tại 19 tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động trong 16 ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế. Bước đầu tập trung, thống nhất và nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả của cơ quan chuyên trách. Mô hình cơ quan chuyên trách là cơ quan nhà nước bảo đảm được vai trò của Nhà nước trong việc chỉ đạo DNNN vừa bảo đảm hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, vừa thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội.
Cơ bản khắc phục được tình trạng một số công việc thuộc trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu chưa được thực hiện đầy đủ, tồn đọng qua nhiều năm (phê duyệt quỹ tiền lương thực hiện, đánh giá xếp loại doanh nghiệp, đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người quản lý doanh nghiệp, quy chế tài chính, phê duyệt báo cáo tài chính, công tác cán bộ, thoái vốn, cổ phần hóa...). Đến nay, Ủy ban đã hoàn thành xử lý hầu hết 259 công việc thuộc trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp các Bộ còn xử lý dở dang, tồn đọng qua nhiều thời kỳ.
Thứ ba, tiếp nhận và thực hiện đầy đủ nhiệm vụ cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo xử lý các dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả ngành công thương; đã tham mưu cho Ban Chỉ đạo để báo cáo Ban Cán sự đảng Chính phủ báo cáo, đề xuất Bộ Chính trị đồng ý chủ trương: (1) Đưa 5 dự án, doanh nghiệp ra khỏi diện theo dõi của Ban Chỉ đạo, giao doanh nghiệp chủ động xử lý theo thẩm quyền và quy định của pháp luật (năm 2021); (2) 03 dự án, doanh nghiệp sản xuất phân bón được cơ cấu nợ vay để tiếp tục hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo dòng tiền trả nợ ngân hàng, cung ứng sản phẩm phân bón ra thị trường, tạo công ăn việc làm cho người lao động…; đồng thời tiếp tục nghiên cứu, đề xuất phương hướng xử lý đối với các dự án, doanh nghiệp còn lại.
Thứ tư, đề cao nguyên tắc tuân thủ pháp luật và bảo toàn, phát triển vốn nhà nước; tăng cường giám sát tài chính doanh nghiệp; giám sát, kiểm soát chặt chẽ việc triển khai các dự án đầu tư lớn, tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước.
Nhiều dự án đầu tư được tháo gỡ khó khăn, triển khai thực hiện, điển hình 10 dự án lớn, quan trọng, đã chậm tiến độ từ nhiều năm, với tổng mức đầu tư 259 ngàn tỷ đồng được triển khai thực hiện, như: Dự án Thăm dò khai thác dầu khí 4 lô tại Khu tự trị Nhenhexky – Liên bang Nga; Dự án Nhà máy điện Hòa Bình mở rộng; Dự án Nhà máy điện Ialy mở rộng, Dự án Nhà máy điện Ô Môn IV; Dự án đường đây 500 KV Vân Phong, Vĩnh Tân; Dự án khai thác hầm lò dưới mức 150 Mỏ than Mạo Khê; Dự án thành phần 3 Cảng HKQT Long Thành; Dự án Nhà ga hành khách T3 Cảng HKQT Tân Sơn Nhất; Dự án mở rộng Cảng hàng không Điện Biên; Dự án mở rộng nhà ga hành khách Cảng HKQT Nội Bài….; tháo gỡ khó khăn để tiếp tục thực hiện Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2.
Kết quả hoạt động của 19 tập đoàn, tổng công ty sau 4 năm chuyển về Ủy ban không bị gián đoạn; hoạt động sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển liên tục, ổn định, hoàn thành kế hoạch hàng năm; tổng giá trị vốn nhà nước được bảo toàn, phát triển; tổng doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, giá trị vốn đầu tư phát triển thực hiện và thu nhập bình quân của người lao động tăng lên; tiếp tục thể hiện vai trò nòng cốt trong một số ngành, lĩnh vực, góp phần bảo đảm các cân đối lớn, ổn định kinh tế vĩ mô; góp phần xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng; tạo động lực phát triển cho các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế.
Những kết quả nêu trên đã khẳng định chủ trương thành lập Ủy ban hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với tính chất, đặc điểm, vị trí vai trò của doanh nghiệp nhà nước và quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN của Đảng và Nhà nước.
Việc tiếp tục phát huy mô hình Ủy ban là cơ quan thuộc Chính phủ như Kết luận số 40-TB/TW của Bộ Chính trị là hết sức cần thiết, theo đó chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cho Ủy ban cần xem xét hoàn thiện để phù hợp hơn với mô hình, điều kiện thực tế của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và hệ thống thể chế, pháp luật có liên quan.
Cụ thể, cần tập trung hơn nữa vào: (1) Công tác định hướng xây dựng và phê duyệt chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển của doanh nghiệp; (2) Kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả đối với doanh nghiệp trong việc thực hiện chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển; bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp; thực hiện các nhiệm vụ chính trị được Nhà nước giao; (3) Làm đầu mối phối hợp với các cơ quan liên quan giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của doanh nghiệp; (4) Công tác cán bộ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp theo quy định. Đồng thời, nghiên cứu điều chỉnh quy định của Luật số 69/2014/QH13 để đẩy mạnh phân công, phân cấp cho Ủy ban và các doanh nghiệp được giao quản lý để tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện các nhiệm được giao./.
Tập đoàn có doanh thu 34 tỷ USD sắp thoái vốn khủng tại PVI
Một cổ phiếu xây dựng tăng trần 7 phiên liên tiếp trước ngày đấu giá trọn lô cổ phần của SCIC