Lý do đằng sau việc nhiều vị quan Việt Nam làm việc đến 80 tuổi mới về hưu
Mặc dù nhiều vua đã quy định việc nghỉ hưu cho các quan chức khi họ đạt 65 hoặc 70 tuổi, nhưng vẫn có những vị quan làm việc đến tuổi hơn 80 tuổi.
Từ thời Lê trung hưng (tính từ vua Lê Thế Tông) đã có quy định rằng các quan văn võ phải đến tuổi 70 mới được nghỉ hưu. Điều này cho thấy trong thời Lê, tuổi thọ của các quan là rất lớn. Theo quy định, nếu một viên quan đến 69 tuổi, cuối năm sẽ làm tờ khởi viện lệ bày xin, giao cho các quan bàn và Chúa Trịnh để xem xét, để có thể được thăng chức tước khi nghỉ hưu.
Thời Lý và Trần, các vị quan phải làm việc cho đến khi nhà vua cho phép về hưu. Trong cuốn "Đại Việt sử ký toàn thư" có ghi lại rằng, vào năm Giáp Dần, niên hiệu Thái Ninh năm thứ 3 (1074), vua Lý Nhân Tông xuống chiếu cho các công thần tám mươi tuổi đều được chống gậy ngồi ghế khi vào chầu.
Thời Trần Anh Tông, có vị quan Hành khiển trí sĩ Nguyễn Kim Ngô về chầu. Kim Ngô tính thẳng thắn nên rất được vua quý trọng, không gọi tên để khuyến khích những người tuổi già vẫn giữ quyền vị.
Thời Lê Dụ Tông, năm Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719), ra quy định: quan võ từ đồng tri giám sự trở lên thì 70 tuổi được về hưu, còn từ lục phẩm trở xuống thì cho cáo lão. Quy định cho quan văn cũng tương tự như vậy.
Nhưng đến năm Vĩnh Thịnh thứ 16 (1720) có sự kiện là nhóm Hàn quận công Trần Công Thực 9 người đều xin được về hưu, mong chúa Trịnh xem xét phê duyệt. Theo sách "Lê triều tạp kỷ" của Ngô Cao Lãnh, thời điểm đó, thể lệ trí sĩ của các võ thần bị bỏ đã lâu, đến lúc này, các vị Công Thực tuổi đều gần 80, được nghỉ việc về hưu.
Nhiều vị quan khác cũng làm quan đến trên 80 tuổi. Điển hình như ông Nguyễn Minh Triết, quê ở Chí Linh, Hải Dương, là người thành đạt muộn. Sách "Nhân vật chí" trong bộ "Lịch triều hiến chương loại chí" của Phan Huy Chú chép rằng, sau đó ông đi thi đỗ thám hoa khoa Tân Mùi, niên hiệu Đức Long (1631, đời vua Lê Thần Tông).
Đến khi thi Hội, thi Đình và ứng chế, ông đều đứng đầu, khi ấy ông đang làm chức huyện doãn ở An Lão (Hải Phòng ngày nay), thì tuổi đã 54. Đến những năm niên hiệu Vĩnh Thọ , có việc sách phong ở trong phủ chúa Trịnh, các quan ở tướng phủ thấy ông là người học rộng, được coi trọng nên tiến cử ông bưng kim sách. Năm ông hơn 80 tuổi, ông được cử làm Thượng thư bộ Binh, tước Cẩn quận công. Khi được cho nghỉ hưu, tinh thần ông vẫn còn khỏe mạnh, minh mẫn. Mỗi khi có các dịp lễ lớn như Tết Nguyên đán và lễ Diên Thọ (sinh nhật vua), ông lại vào triều. Ông thọ 96 tuổi mới mất, được truy tặng chức Thượng thư bộ Hộ, được ban tên thụy là Văn Đẩu.
Phan Huy Chú nói: "Ông Nguyễn Minh Triết là người văn hay học rộng, được thời ấy suy tôn. Nhưng thi đỗ muộn, tiến lên cõi thọ gần trăm tuổi như ông, cũng là việc ít thấy ở đời".
Vào thời này, cũng có một vị đại khoa làm quan đến khi trên 80 tuổi - đó là tiến sĩ Vũ Công Đạo. Ông là người làng Mộ Trạch (huyện Bình Giang, Hải Dương). Sách "Nhân vật chí" ghi lại: vào niên hiệu Vĩnh Thọ, năm 1658, có khoa thi Hương, nhưng vì ông đang có tang cha mẹ nên không dự thi được. Đêm ông ngủ mộng thấy đến chùa Vô Ngại, nghe có tiếng gọi "Tiến sĩ đi đâu đấy?". Ông gặp người giữ cửa hỏi rằng: "Có quan nào ở trong ấy?". Người giữ cửa nói: "Mặc áo vàng ngồi giữa là Ngọc Hoàng Thượng đế, mặc áo đỏ và xanh ngồi hai bên tả hữu là Nam Tào và Bắc Đẩu". Ông vào sân yết kiến để hỏi, bỗng nghe nói "Năm nay thi đỗ".
Rồi khoa thi Hội mùa Xuân năm Kỷ Hợi (1659), vì triều đình có việc nên hoãn đến mùa Đông. Chúa Trịnh Căn có chỉ xuống nói rằng những người thiếu mặt và đi thi thay, nếu có văn học giỏi đều tha cho cả để thu dụng nhân tài. Vì thế, ông được miễn lệ, khoa ấy quả nhiên ông đỗ tiến sĩ. Vũ Công Đạo làm Ngự sử ở trong triều, ông nổi tiếng là người cương nghị, được mọi người thời đó đánh giá là ngự sử chân chính. Do nói lời thẳng thắn nên có lúc ông bị bãi chức, nhưng chúa Trịnh lại triệu ông và cho làm quan đến chức Thượng thư bộ Hộ, đến năm 86 tuổi ông mới qua đời.
Năm 1832, đời vua Minh Mạng có viên Hữu quân Phó tướng, Gia nô thống hàm Nguyễn Văn Xuân, cũng làm quan khi tuổi đã 80. Nhà vua dụ rằng: "Nguyễn Văn Xuân năm nay đã 80 tuổi thọ, thế mà đi lại khỏe mạnh, ngày thường tới hầu, vả lại năm trước có hai lần làm việc ngoài biên đều thành công cả. Nay gặp ngày sinh của ngươi, ta được biết thật đáng vì ngươi mà vui mừng, bèn sai Thị lang Nội các là Hoàng Quýnh và Lãnh thị vệ là Nguyễn Trọng Tinh tới ban các đồ thưởng để tỏ lòng ta đoái thương, ưu đãi người bề tôi kỳ cựu có công lao". Nhân dịp sinh nhật 80 tuổi của ông, nhà vua cũng ban tặng rất nhiều vật quý.
Cuối thời Nguyễn, có cụ Đoàn Tử Quang, người huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, năm 1900 (đời vua Thành Thái) thi đỗ cử nhân khi đã 82 tuổi, vẫn được đặc cách bổ dụng làm Huấn đạo huyện Hương Sơn, rồi Huấn đạo huyện Can Lộc. Đến năm 85 tuổi, cụ mới xin vua để về hưu để phụng dưỡng mẹ già.