Người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ ‘Việt Nam’
Không chỉ là nhà giáo, nhà thơ và danh sĩ kiệt xuất, ông còn được tôn vinh là “nhà tiên tri số 1 của Việt Nam”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), tên húy Nguyễn Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân am cư sĩ, được môn sinh tôn xưng là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử và văn hóa Việt Nam thế kỷ XVI.

Lớn lên trong thời kỳ nhà Hậu Lê rơi vào khủng hoảng, suy tàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không ra ứng thí sớm. Tính từ khi trưởng thành, ông bỏ qua 6 khoa thi dưới triều Lê sơ. Ngay cả khi nhà Mạc lên thay cho Lê sơ năm 1527, xã hội dần đi vào ổn định, ông vẫn chưa ra ứng thi mà bỏ qua 2 khoa thi đầu dưới triều Mạc.
Tới năm 1535, dưới thời vua Mạc Thái Tông Đăng Doanh - thời thịnh trị nhất của nhà Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên. Năm đó, ông đã ngoài 40 tuổi.
Sau khi đỗ đạt, Nguyễn Bỉnh Khiêm được bổ nhiệm làm nhiều chức vụ. Đến khi Mạc Thái Tông đột ngột qua đời vào năm 1540, Mạc Hiến Tông còn ít tuổi lên thay cha khiến triều chính nhiễu nhương, Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ trị tội 18 lộng thần nhưng không được vua chấp nhận nên năm 1542 đã xin về quê.

Sau 2 năm, vua Mạc lại sai người về phong tước Trình Tuyền Hầu cho ông rồi lại thăng ông lên chức Thượng thư Bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc Công.
Không chỉ là nhà giáo, nhà thơ và danh sĩ kiệt xuất, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn được tôn vinh là “nhà tiên tri số 1 của Việt Nam”. Câu nói “An Nam lý số hữu Trình Tuyền” (An Nam có Trạng Trình giỏi lý số) là minh chứng cho sự thừa nhận đặc biệt từ người Trung Hoa về tài dự đoán của ông.
Ông để lại cho hậu thế 487 câu sấm ký, được gọi là “Sấm Trạng Trình”, ra đời hơn 500 năm trước. Điều đặc biệt là nhiều sự kiện lịch sử của Việt Nam và thế giới trong suốt 5 thế kỷ qua được cho là “ứng” với những câu sấm này.
Trong Sấm Ký, Trạng Trình mô tả rõ những biến thiên lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng cho tới thời cận đại. Ông cũng được xem là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ “Việt Nam” qua câu sấm "Việt Nam khởi tổ gầy nên".
Thời điểm ông sống, quốc hiệu là Đại Việt, khoảng 300 năm sau đổi thành Nam Việt và sau đó trở thành Việt Nam như ngày nay.

Có thể nói, ở thế kỷ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà triết học lớn của Việt Nam. Nhờ sự uyên thâm, ông được triều đình nhà Mạc và giới sĩ phu đương thời phong tước Trình Tuyền Hầu, danh hiệu gợi nhắc đến hai nhà triết học Trình Di và Trình Hiện, những người khai sáng phái Lạc Dương của Tống Nho. Dân gian cũng quen gọi ông bằng tên kính trọng: cụ Trạng Trình.
Bên cạnh vị thế là danh nhân văn hóa, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn được tôn kính trong đời sống tâm linh. Ông được suy tôn là Thanh Sơn Đạo sĩ (hay Thanh Sơn Chơn Nhơn), một trong ba vị Thánh linh thiêng của Đạo Cao Đài.
Trong bức Tam Thánh ký hòa ước, hiện lưu giữ tại Tòa Thánh Tây Ninh, hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm được khắc họa trang trọng bên cạnh hai danh nhân thế giới: Victor Hugo và Tôn Trung Sơn. Đây là biểu tượng cho khát vọng hòa bình và lý tưởng “nhân loại đại đồng” mà ông và nhiều bậc hiền triết hướng tới.