PGS.TS Vũ Sỹ Cường: Giải ngân đầu tư công muốn hiệu quả, cần áp dụng chế tài thưởng phạt minh bạch
Bước vào năm 2025, nền kinh tế Việt Nam hướng đến mục tiêu tăng trưởng GDP 8% với sự hỗ trợ từ chính sách tài khóa mở rộng. Câu hỏi đặt ra là: nguồn lực ngân sách sẽ được phân bổ ra sao, và liệu việc gia tăng chi tiêu công có thực sự mang lại hiệu quả như kỳ vọng?
Năm 2025, với kịch bản tăng trưởng GDP 8%, tổng vốn đầu tư công dự kiến đạt 875 nghìn tỷ đồng cao hơn khoảng 84,3 nghìn tỷ đồng so với kế hoạch đã giao năm 2025), trong khi nghĩa vụ trả lãi trực tiếp của Chính phủ ước tính lên tới 107,4 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 5,5% tổng thu NSNN.
Với bội chi ngân sách dự kiến tiếp tục duy trì, bài toán cân đối tài chính công trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ và hiệu quả trong chi tiêu ngân sách. Trước những vấn đề đặt ra, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Vũ Sỹ Cường – Phó trưởng Bộ môn Phân tích Chính sách Tài chính, Học viện Tài chính, một chuyên gia uy tín về tài chính công. Ông đã đưa ra những nhận định sâu sắc về hiệu quả của chính sách tài khóa và những điều chỉnh cần thiết để đảm bảo sử dụng nguồn lực ngân sách hợp lý trong năm 2025.
.jpg)
PV: Giai đoạn 2020-2024, Việt Nam áp dụng chính sách tài khóa mở rộng để hỗ trợ tổng cầu. Ông đánh giá thế nào về tác động của chính sách này đến tăng trưởng và lạm phát? Năm 2025, theo ông đâu là những khác biệt đáng chú ý trong chính sách tài khóa so với giai đoạn trước?
PGS.TS Vũ Sỹ Cường: Chính sách tài khóa mở rộng được triển khai trong giai đoạn 2020-2024 đã có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bối cảnh giai đoạn 2020 chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch COVID-19, đặt ra yêu cầu cấp thiết về các biện pháp kích thích kinh tế nhằm duy trì tổng cầu, hạn chế suy giảm sản lượng và hỗ trợ doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, hàng loạt Nghị quyết được ban hành nhằm thực thi các chính sách tài khóa nới lỏng, bao gồm miễn giảm thuế, tăng cường chi tiêu công và hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các nhóm đối tượng bị ảnh hưởng. Đặc biệt, chính sách miễn giảm thuế đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp, góp phần duy trì hoạt động sản xuất - kinh doanh và tạo động lực tăng trưởng kinh tế.
Hiệu quả của chính sách tài khóa có thể được đo lường thông qua hệ số nhân chi tiêu công, phản ánh mức độ tác động của chi tiêu Chính phủ đến GDP. Nhìn từ thực tế, có thể thấy Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng khả quan ngay trong giai đoạn Covid-19, thuộc nhóm các quốc gia có tăng trưởng kinh tế tích cực nhất thế giới. Trong bối cảnh nhiều nền kinh tế rơi vào suy thoái với mức tăng trưởng âm, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng dương, hạn chế tối đa tác động tiêu cực của đại dịch. Điều này cho thấy các biện pháp tài khóa mở rộng đã phát huy hiệu quả trong việc giữ ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Về lạm phát, ảnh hưởng của chính sách tài khóa trong giai đoạn 2020-2024 là không quá lớn. Lạm phát của Việt Nam trong suốt giai đoạn này đều duy trì dưới mức 4%, nằm trong ngưỡng kiểm soát và thấp hơn đáng kể so với nhiều quốc gia khác. Điều này chứng tỏ chính sách tài khóa mở rộng được thực thi một cách có kiểm soát, không gây áp lực lạm phát quá mức lên nền kinh tế. Nhìn chung, việc sử dụng chính sách tài khóa mở rộng trong giai đoạn 2020-2024 là hợp lý và mang lại hiệu quả tích cực.
Bước sang năm 2025, chính sách tài khóa có một số khác biệt đáng chú ý so với giai đoạn trước. Trước hết, Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện một số chính sách miễn giảm thuế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, trọng tâm chính sách tài khóa năm 2025 sẽ chuyển sang thúc đẩy đầu tư công, với dự kiến mức tăng khoảng 15-20% so với trung bình các năm trước. Đây sẽ là một động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế trong năm 2025, góp phần mở rộng tổng cung và nâng cao năng suất lao động.
Việc tăng đầu tư công có thể làm gia tăng áp lực lạm phát, đặc biệt khi dòng vốn lớn được bơm vào nền kinh tế. Tuy nhiên, cá nhân tôi cho rằng với Việt nam mức độ ảnh hưởng sẽ không quá lớn. Hơn nữa, đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, mức lạm phát khoảng 5% có thể xem là chấp nhận được, thậm chí trong một số trường hợp, lạm phát ở mức 6% cũng không phải là vấn đề quá nghiêm trọng nếu đi kèm với tăng trưởng cao. Hiện tại, lạm phát của Việt Nam vẫn ở mức dưới 5%, nằm trong giới hạn kiểm soát.
Bên cạnh đó, một yếu tố quan trọng giúp kiểm soát lạm phát là khả năng tự chủ về nguồn cung lương thực, thực phẩm. Lạm phát thường được chia thành lạm phát tổng thể và lạm phát cơ bản, trong đó, lạm phát tổng thể chịu tác động lớn từ giá lương thực, năng lượng và hàng hóa thiết yếu. Việt Nam có lợi thế lớn khi là quốc gia có khả năng tự cung lương thực, giúp giảm thiểu rủi ro từ cú sốc giá cả hàng hóa nhập khẩu. Điều này đồng nghĩa với việc, ngay cả khi có sự gia tăng trong đầu tư công, áp lực lạm phát vẫn có thể được kiểm soát ở mức hợp lý.
PV: Tổng thu NSNN năm 2024 ước đạt 2.037,5 nghìn tỷ đồng, vượt 119,8% dự toán nhưng vẫn phụ thuộc vào thuế gián thu và xuất nhập khẩu. Ông đánh giá thế nào về tính bền vững của cơ cấu thu này? Việt Nam cần điều chỉnh chính sách thuế ra sao để ổn định nguồn thu và giảm rủi ro tài khóa?
PGS.TS Vũ Sỹ Cường: Trước hết, năm 2024 đánh dấu một cột mốc quan trọng khi tổng thu NSNN lần đầu tiên vượt mốc 2 triệu tỷ đồng. Mặc dù đây là một thành tựu đáng ghi nhận, cơ cấu thu NSNN vẫn chưa thực sự bền vững do phụ thuộc đáng kể vào thuế gián thu. Tuy nhiên, tỷ trọng thuế xuất nhập khẩu trong tổng thu NSNN đã giảm đáng kể so với các giai đoạn trước. Nếu như trước đây, thuế xuất nhập khẩu chiếm từ 18-20% tổng thu NSNN, thì đến nay con số này đã giảm xuống còn khoảng 11-12%. Điều này phản ánh xu hướng hội nhập kinh tế và cam kết cắt giảm thuế quan theo các hiệp định thương mại tự do (FTA), giúp thúc đẩy thương mại nhưng đồng thời cũng đặt ra thách thức trong việc tìm kiếm các nguồn thu thay thế.

Thuế gián thu, bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và thuế bảo vệ môi trường (BVMT), vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN. Đây là một đặc điểm của nhiều nền kinh tế đang phát triển, nơi hệ thống thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp chưa đủ mạnh để đóng vai trò chủ đạo trong cơ cấu thu ngân sách. Tuy nhiên, về dài hạn, khi nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu tiếp tục giảm, Việt Nam cần có sự điều chỉnh đối với các loại thuế khác để đảm bảo tính ổn định và bền vững của NSNN.
Một trong những giải pháp quan trọng là mở rộng cơ sở thuế thông qua việc tăng cường đánh thuế vào bất động sản. Cần lưu ý rằng thuế bất động sản và thuế tài sản là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Thuế tài sản là một loại thuế áp dụng trên mọi loại tài sản, bao gồm cả động sản và bất động sản, trong khi thuế bất động sản chỉ áp dụng đối với quyền sở hữu hoặc sử dụng đất đai và tài sản gắn liền với đất. Trên thực tế, nhiều quốc gia không áp dụng thuế tài sản một cách rộng rãi, nhưng thuế bất động sản lại là một nguồn thu quan trọng, đặc biệt đối với ngân sách địa phương.
Hiện nay, cơ cấu thu ngân sách địa phương tại Việt Nam chưa thực sự bền vững, do phụ thuộc lớn vào nguồn thu từ đất đai, đặc biệt là tiền sử dụng đất. Đây là nguồn thu một lần, không tái tạo được, và dễ dẫn đến tình trạng mất cân đối tài khóa trong dài hạn. Khi tốc độ tăng dân số có xu hướng chậm lại, nhu cầu mở rộng quỹ đất đô thị sẽ không còn mạnh mẽ như trước, làm giảm đáng kể nguồn thu từ tiền sử dụng đất. Việc chuyển sang áp dụng thuế bất động sản có thể là một giải pháp nhằm tạo ra nguồn thu ổn định, bền vững hơn cho các địa phương.
Ngoài ra, thuế bất động sản còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tài trợ cho hệ thống cơ sở hạ tầng. Trong nhiều nền kinh tế phát triển, thuế bất động sản thường được xem là một loại “local tax” – thuế địa phương, giúp duy trì và phát triển hạ tầng công cộng. Nguyên tắc cơ bản là những khu vực có cơ sở hạ tầng tốt hơn sẽ chịu mức thuế cao hơn, nhằm phản ánh giá trị gia tăng mà hạ tầng mang lại. Ở Việt Nam, do chưa áp dụng thuế bất động sản, ngân sách địa phương vẫn phụ thuộc nhiều vào ngân sách trung ương và nguồn thu từ đất đai, điều này làm giảm tính chủ động trong điều hành tài chính công.
Nhìn tổng thể, cơ cấu thu NSNN đang có những chuyển biến tích cực, với tỷ trọng thu từ nội địa và hoạt động sản xuất kinh doanh có xu hướng tăng lên. Điều này phản ánh sự cải thiện trong khả năng tự chủ tài khóa của nền kinh tế, giảm dần sự phụ thuộc vào các nguồn thu không bền vững từ tài nguyên và xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, vẫn còn một số bất ổn trong cơ cấu thu ngân sách, đặc biệt là sự phụ thuộc của các địa phương vào nguồn thu từ đất đai và vận tải. Nếu không có sự điều chỉnh kịp thời, các địa phương có thể gặp khó khăn trong việc duy trì nguồn lực tài Chính phủc vụ cho phát triển hạ tầng và cung cấp dịch vụ công.
Mục tiêu của chính sách thuế trong thời gian tới không chỉ là đảm bảo nguồn thu NSNN, mà còn phải hướng đến việc tạo ra một hệ thống thuế công bằng, hiệu quả và có tính bền vững cao. Cần tránh sự nhầm lẫn giữa thuế tài sản và thuế bất động sản, bởi thuế bất động sản không phải là một công cụ điều tiết thu nhập hay tái phân phối tài sản, mà chủ yếu nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách địa phương. Đây cũng là xu hướng chung của nhiều quốc gia trên thế giới, nơi mà thuế bất động sản đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính công.
PV: Tổng chi ngân sách Nhà nước (NSNN) tới hết tháng 12/2024 ước đạt ước đạt 1.830,8 nghìn tỷ đồng, bội chi ở mức 3,4% GDP, trong đó chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn. Ông đánh giá thế nào về hiệu quả phân bổ nguồn lực tài khóa? Những cải cách nào cần thiết để tối ưu hóa chi tiêu công và đảm bảo tính bền vững ngân sách?
PGS.TS Vũ Sỹ Cường: Trước hết, con số 86,4% này mới là ước tính đến hết tháng 12 năm 2024 và có thể có sai lệch so với con số quyết toán cuối cùng. Điều này xuất phát từ quy định cho phép các khoản chi đã được cam kết, có chứng từ hợp lệ để thanh toán nhưng chưa thực hiện trong năm tài khóa được phép tiếp tục giải ngân đến hết tháng 1 của năm sau. Do đó, tỷ lệ giải ngân thực tế thường sẽ cao hơn mức công bố vào cuối năm. Đối với chi tiêu công, mặc dù báo cáo cho thấy tỷ lệ giải ngân chỉ đạt mức hơn 80 % vào cuối tháng 12, nhưng con số này khi cập nhật đầy đủ sẽ có thể cao hơn, đạt gần 90%.
Xét về cơ cấu chi ngân sách, chi thường xuyên từ lâu đã chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi NSNN, tạo ra áp lực không nhỏ đối với dư địa tài khóa. Đây là một vấn đề tồn tại dai dẳng, và chính vì vậy, Việt Nam đã triển khai các chương trình cải cách hành chính mạnh mẽ, bao gồm việc sáp nhập, tinh giản bộ máy, nhằm giảm chi tiêu thường xuyên và nâng cao hiệu suất sử dụng nguồn lực công. Trước đây, có giai đoạn chi thường xuyên lên tới hơn 70% tổng chi ngân sách, nhưng hiện nay con số này đã giảm xuống còn khoảng 65-67%. Mặc dù vẫn còn cao, nhưng xu hướng này là tích cực, đặc biệt trong bối cảnh Chính phủ đang đẩy mạnh sắp xếp lại bộ máy hành chính nhằm tối ưu hóa nguồn lực tài khóa.

Tuy nhiên, quá trình tinh giản bộ máy cũng đặt ra những thách thức tài khóa không nhỏ. Khi thực hiện tinh giản biên chế, nhiều lao động sẽ nghỉ việc sớm hoặc nghỉ hưu trước tuổi, đồng nghĩa với việc ngân sách phải chi trả các khoản bồi thường và hỗ trợ tái định cư nghề nghiệp. Những khoản chi này, mặc dù có tính chất nhất thời, vẫn được phân loại vào nhóm chi thường xuyên vì chúng liên quan đến con người, không phải là chi đầu tư phát triển. Do đó, cần có chiến lược hợp lý để cân đối ngân sách trong quá trình thực hiện cải cách.
Hiện nay, phương án chi trả trợ cấp cho lao động nghỉ hưu sớm chưa thực sự tối ưu. Thay vì chi trả một khoản lớn ngay tại thời điểm họ rời khỏi bộ máy nhà nước, có thể áp dụng cơ chế chi trả theo từng năm, giúp giảm áp lực ngay lập tức lên ngân sách. Việc chi trả một lần tạo ra rủi ro tài chính không chỉ cho NSNN mà còn cho chính người lao động, bởi nếu không có kế hoạch tài chính hợp lý, họ có thể tiêu hết số tiền trong thời gian ngắn và gặp khó khăn về thu nhập trong những năm tiếp theo, trước khi chính thức được hưởng lương hưu. Do đó, một cơ chế thanh toán dàn trải theo thời gian không chỉ giúp chính sách tài khóa bền vững hơn, mà còn giảm thiểu rủi ro tài chính cá nhân cho người lao động.
Về đầu tư công, trong những năm gần đây, tình trạng đầu tư dàn trải đã giảm đáng kể. Vấn đề lớn hiện nay không còn nằm ở việc phân bổ vốn mà tập trung chủ yếu vào tiến độ giải ngân. Trên thực tế, chưa từng có năm nào tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt 100%; mức cao nhất cũng chỉ dao động khoảng hơn 90%. Tiến độ giải ngân phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm công tác chuẩn bị dự án, thủ tục hành chính và năng lực triển khai của các địa phương và bộ ngành. Một trong những kỳ vọng trong thời gian tới là việc hợp nhất các cơ quan quản lý sẽ giúp cải thiện tiến độ giải ngân, giảm thiểu tình trạng chậm trễ trong triển khai các dự án hạ tầng quan trọng.

Ngoài ra, cần áp dụng cơ chế khuyến khích và chế tài rõ ràng trong công tác giải ngân đầu tư công. Cụ thể, có thể xem xét áp dụng các biện pháp thưởng – phạt đối với các đơn vị thực hiện giải ngân. Một số ý kiến có thể cho rằng công chức thực hiện giải ngân chỉ làm nhiệm vụ của mình nên không cần có chế độ thưởng, nhưng thực tế cho thấy nếu không có động lực khuyến khích thì tiến độ giải ngân có thể bị kéo dài, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư công. Ngược lại, nếu một đơn vị chậm giải ngân so với kế hoạch đề ra, cần có biện pháp xử lý hoặc điều chỉnh phân bổ vốn để tránh lãng phí nguồn lực.
PV: Chính phủ đã nâng mục tiêu tổng vốn đầu tư công năm 2025 lên 36 tỷ USD (tương đương 875 nghìn tỷ đồng), xấp xỉ 7% GDP. Theo ông, quy mô này có tạo hiệu ứng số nhân tài khóa đủ mạnh để đạt tăng trưởng GDP 8% không? Liệu hiệu suất biên của đầu tư công có suy giảm, làm giảm hiệu quả và gia tăng áp lực nợ công?
PGS.TS Vũ Sỹ Cường: Đầu tư công là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, việc quy mô đầu tư công năm 2025 được nâng lên mức 875 nghìn tỷ đồng có đủ để đưa GDP tăng trưởng lên 8% hay không thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, không chỉ riêng đầu tư công.
Theo lý thuyết, đầu tư công có thể tạo ra hiệu ứng số nhân tài khóa, giúp kích thích tổng cầu và tăng trưởng. Tuy nhiên, một mặt, đầu tư công có thể thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, nhưng mặt khác, nếu không được triển khai hợp lý, nó có thể dẫn đến hiệu ứng lấn át (crowding-out effect), làm suy giảm đầu tư tư nhân do Chính phủ huy động vốn từ khu vực tài chính, khiến lãi suất tăng và làm giảm động lực đầu tư của khu vực doanh nghiệp. Do đó, mức tăng trưởng GDP 8% không thể chỉ dựa vào đầu tư công, mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như xuất nhập khẩu, tiêu dùng nội địa, hiệu quả khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cũng như môi trường kinh doanh tổng thể.

Về câu hỏi liệu hiệu suất biên của đầu tư công có suy giảm hay không, điều này chủ yếu phụ thuộc vào chất lượng lập kế hoạch và thực thi chính sách đầu tư. Nếu các dự án được triển khai đúng tiến độ, có sự chuẩn bị tốt và có tính khả thi cao, hiệu suất biên của đầu tư công vẫn có thể được duy trì ở mức hiệu quả. Việc tăng quy mô đầu tư công lên 875 nghìn tỷ đồng thực sự là một con số lớn so với các năm trước, nhưng nếu giải ngân được thực hiện đúng kế hoạch, phù hợp với nhu cầu phát triển hạ tầng và không gây ách tắc trong nền kinh tế, thì tác động tích cực của đầu tư công vẫn sẽ được duy trì. Một trong những yếu tố quan trọng cần cân nhắc là dư địa đầu tư hạ tầng của Việt Nam vẫn còn rất lớn. Nhiều lĩnh vực như giao thông, đô thị, năng lượng, công nghệ thông tin vẫn có nhu cầu đầu tư cao, do đó, nếu nguồn vốn đầu tư được phân bổ vào các dự án có tính cấp thiết và hiệu quả, hiệu suất biên của đầu tư công vẫn có thể đạt được kết quả tích cực. Ngược lại, nếu đầu tư không được quy hoạch hợp lý, trải rộng vào những dự án có hiệu quả thấp, hoặc bị trì hoãn trong khâu giải ngân, thì hiệu suất biên có thể suy giảm, làm giảm tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Vấn đề cốt lõi không phải là việc Chính phủ có chi quá nhiều hay không, mà là cách thức sử dụng nguồn vốn này có hợp lý, hiệu quả và đúng mục đích hay không. Nếu đầu tư công được triển khai một cách khoa học, tập trung vào các dự án hạ tầng thiết yếu, có tác động lan tỏa cao đến nền kinh tế, thì không chỉ giúp duy trì tăng trưởng mà còn hỗ trợ khu vực tư nhân và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Ngược lại, nếu nguồn vốn này bị phân bổ dàn trải, kém hiệu quả, hoặc gặp vấn đề trong khâu giải ngân, thì không chỉ làm suy giảm hiệu suất biên mà còn tạo thêm áp lực lên ngân sách và gia tăng gánh nặng nợ công trong tương lai.
Do đó, điều quan trọng nhất là phải đảm bảo cơ chế quản lý chặt chẽ, minh bạch, đồng thời có các biện pháp giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư công để đảm bảo nguồn vốn này mang lại tác động tích cực bền vững cho nền kinh tế.
PV: Theo Báo cáo của Chính phủ, tỷ lệ dư nợ công dự kiến đạt 36-37% GDP vào cuối năm 2025, trong khi nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ ước tính khoảng 468,5 nghìn tỷ đồng, tương đương 24% tổng thu ngân sách nhà nước. Trong đó, nghĩa vụ trả lãi trực tiếp khoảng 107,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,5% thu NSNN. Ông đánh giá thế nào về triển vọng bền vững của nợ công trong trung hạn? Việc Chính phủ mở rộng quy mô vay nợ có thể gây ra hiệu ứng chèn lấn đối với khu vực tư nhân hay không?
PGS.TS Vũ Sỹ Cường: Liên quan đến áp lực nợ công, tại thời điểm hiện tại, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam vẫn ở mức an toàn, cách khá xa ngưỡng trần cho phép và thấp hơn đáng kể so với các ngưỡng cảnh báo quốc tế.

Tuy nhiên, một chỉ tiêu cần lưu ý là nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ năm 2025. So với giai đoạn trước, áp lực trả lãi vay đang có xu hướng tăng dần. Điều này đòi hỏi một chiến lược quản lý nợ công hiệu quả nhằm tránh tạo áp lực lên cân đối ngân sách. Theo ước tính của chúng tôi, hiện nay tỷ lệ nghĩa vụ trả lãi trực tiếp vẫn đang ở mức hợp lý, nhưng với xu hướng gia tăng, đây là yếu tố mà Chính phủ cần đặc biệt cân nhắc trong việc lập kế hoạch vay nợ, cũng như điều chỉnh kỳ hạn và phương thức trả nợ.
Việc vay nợ của Chính phủ có nhiều hình thức khác nhau, từ phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) trong nước đến vay nợ từ các tổ chức tài chính quốc tế. Mỗi phương thức vay đều có những lợi ích và rủi ro nhất định, phụ thuộc vào điều kiện thị trường tài chính, khả năng huy động vốn và chiến lược tài khóa của quốc gia. Một yếu tố quan trọng trong quản lý nợ công là cần đàm phán linh hoạt về lãi suất, kỳ hạn, và cơ chế trả nợ, nhằm tối ưu hóa chi phí vay cũng như giảm thiểu tác động tiêu cực đến ngân sách trong trung hạn và dài hạn.
Về câu hỏi liệu việc mở rộng quy mô vay nợ có gây ra hiệu ứng chèn lấn (crowding-out effect) đối với khu vực tư nhân hay không, câu trả lời phụ thuộc vào nguồn gốc của các khoản vay. Nếu Chính phủ vay trong nước, rõ ràng là sẽ có nguy cơ chèn lấn khu vực tư nhân, bởi tổng cung tín dụng của nền kinh tế là hữu hạn. Khi Chính phủ huy động một lượng vốn lớn từ hệ thống tài chính nội địa, các doanh nghiệp tư nhân sẽ gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay, đồng thời có thể làm gia tăng lãi suất thị trường, ảnh hưởng đến chi phí vay của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu phần lớn khoản vay là từ các nguồn vốn quốc tế, hiệu ứng chèn lấn này sẽ không đáng kể, nhưng lại đi kèm với những rủi ro khác như biến động tỷ giá hối đoái, điều kiện vay nợ từ các đối tác nước ngoài, cũng như các yếu tố liên quan đến địa chính trị và quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia.

Mặc dù có nguy cơ chèn lấn đầu tư tư nhân, nhưng mức độ ảnh hưởng của nó trong giai đoạn 2025 có thể không quá nghiêm trọng. Quy mô vay nợ dự kiến tăng thêm khoảng 84-85 nghìn tỷ đồng so với kế hoạch ban đầu của năm 2025 và khoảng 150 nghìn tỷ đồng so với chi đầu tư công năm 2024, nhưng con số này vẫn chưa đủ lớn để gây ra cú sốc lớn đối với thị trường vốn. Dù vậy, vẫn cần có những biện pháp điều tiết hợp lý, nhất là trong bối cảnh Chính phủ đang theo đuổi chính sách duy trì lãi suất ổn định ở mức thấp nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Một yếu tố quan trọng trong quản lý nợ công là thời điểm và phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ. Nếu phát hành trái phiếu vào thời điểm thị trường tài chính đang căng thẳng về thanh khoản, sẽ làm gia tăng áp lực lãi suất, gây khó khăn cho cả khu vực công và tư. Ngược lại, nếu huy động vốn vào thời điểm thị trường có thanh khoản dồi dào, khả năng hấp thụ vốn cao, thì tác động tiêu cực sẽ được giảm thiểu đáng kể. Do đó, việc tính toán thời điểm, quy mô và phương thức phát hành TPCP là một khâu quan trọng trong chiến lược quản lý nợ công, nhằm đảm bảo cân bằng giữa mục tiêu huy động vốn cho đầu tư công và ổn định thị trường tài chính.
PV: Với mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm 2025, Chính phủ dự kiến sử dụng chính sách tài khóa mở rộng có chọn lọc kết hợp với chính sách tiền tệ linh hoạt để duy trì tổng cầu. Ông đánh giá thế nào về tính hợp lý của chiến lược này khi dư địa tiền tệ hạn chế? Liệu đã đến lúc chuyển trọng tâm sang nâng cao năng suất tổng hợp (TFP) và năng lực cạnh tranh dài hạn?
PGS.TS Vũ Sỹ Cường: Việc Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm 2025 đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh hiện tại, chính sách tài khóa sẽ đóng vai trò chủ đạo hơn do dư địa của chính sách tiền tệ đã trở nên hạn chế. Lãi suất đã được điều chỉnh xuống mức thấp và khó có thể tiếp tục giảm thêm mà không làm gia tăng rủi ro lạm phát. Đồng thời, việc mở rộng cung tiền (tổng phương tiện thanh toán - M2) cần được kiểm soát chặt chẽ để tránh tạo áp lực lên giá cả và thị trường ngoại hối.
Ngoài ra, những ràng buộc từ các cam kết quốc tế, đặc biệt là nguy cơ bị xếp vào nhóm các quốc gia thao túng tiền tệ, cũng hạn chế khả năng điều chỉnh chính sách tỷ giá. Do đó, một chiến lược hợp lý phải mang tính linh hoạt cao, không thể cứng nhắc theo hướng chỉ sử dụng một công cụ duy nhất. Chính phủ cần có sự điều phối chính sách tài khóa và tiền tệ một cách nhạy bén theo từng thời điểm, phù hợp với diễn biến kinh tế trong nước và quốc tế.
Về vấn đề liệu nền kinh tế đã đến giai đoạn cần dịch chuyển trọng tâm chính sách sang nâng cao năng suất tổng hợp (TFP) và cải thiện năng lực cạnh tranh dài hạn hay chưa, đây không còn là một lựa chọn, mà là một yêu cầu tất yếu. Mọi nền kinh tế muốn duy trì tăng trưởng bền vững trong dài hạn đều phải dựa vào việc nâng cao TFP thay vì chỉ dựa vào mở rộng tổng cầu. Ở Việt Nam, động thái tái cấu trúc bộ máy hành chính, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước, cũng như hệ thống chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội hiện nay chính là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả điều hành và sử dụng nguồn lực công.
Một ví dụ cụ thể có thể thấy rõ là khi các cơ quan được sáp nhập và tinh giản, thay vì có hai đầu mối giải quyết một công việc như trước đây, nay chỉ còn một đầu mối, giúp giảm thiểu chi phí thời gian và nâng cao hiệu quả quản lý. Đồng thời, việc thúc đẩy chuyển đổi số cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này, đặc biệt là khi các dịch vụ công và thủ tục hành chính được số hóa, giúp giảm bớt sự can thiệp thủ công, hạn chế chi phí không chính thức và nâng cao hiệu suất hoạt động của nền kinh tế.
Tuy nhiên, chuyển đổi số hay bất kỳ hình thức cải cách nào cũng đều cần yếu tố con người làm trung tâm. Việc ứng dụng công nghệ mà thiếu minh bạch trong thực thi sẽ không mang lại hiệu quả thực sự. Một hệ thống số hóa nhưng vẫn tồn tại tình trạng "chạy ngoài" nộp hồ sơ giấy hoặc kéo dài thời gian xử lý thì không thể cải thiện được hiệu quả vận hành. Do đó, cần đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quá trình triển khai, đảm bảo rằng người dân và doanh nghiệp có quyền giám sát, khiếu nại nếu các thủ tục hành chính không được xử lý theo đúng quy định.
Một nền kinh tế có thể chế mạnh không chỉ là nền kinh tế có các quy định đầy đủ, mà quan trọng hơn là việc thực hiện các quy định đó phải nghiêm túc, công bằng và minh bạch. Nếu quy định một thủ tục hành chính phải được xử lý trong hai tuần, thì đúng hai tuần phải có kết quả. Nếu không thể xử lý đúng hạn, phải có lý do rõ ràng và xác định thời hạn mới để hoàn thành, tránh tình trạng trì hoãn kéo dài không rõ ràng. Khi thủ tục hành chính được minh bạch, chi phí không chính thức của doanh nghiệp sẽ giảm đáng kể, từ đó tạo động lực cải thiện TFP và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Nhìn chung, trong bối cảnh dư địa của chính sách tiền tệ không còn nhiều, việc sử dụng chính sách tài khóa mở rộng có chọn lọc là một chiến lược hợp lý. Tuy nhiên, về dài hạn, Việt Nam cần chuyển dần từ mô hình tăng trưởng dựa vào tổng cầu sang mô hình dựa trên nâng cao năng suất, cải thiện thể chế và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Chỉ khi đó, nền kinh tế mới có thể đạt được sự tăng trưởng bền vững và không bị lệ thuộc quá mức vào các biện pháp kích thích ngắn hạn.
Xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Vũ Sỹ Cường đã chia sẻ những phân tích sâu sắc về chính sách tài khóa năm 2025. Những đánh giá và góc nhìn của ông sẽ góp phần giúp độc giả hiểu rõ hơn về việc quản lý và sử dụng ngân sách hiệu quả.
Giải ngân đầu tư công mạnh mẽ: Cú hích lớn cho GDP và thị trường trái phiếu
Tăng trưởng 8%: Phải linh hoạt các chính sách tài khoá và tiền tệ