Tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học: Mục tiêu lớn, đầy thách thức
Trưởng Ban Quản lý Ðề án Ngoại ngữ Quốc gia, Bộ GD&ÐT nhận định, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ giao tiếp, giảng dạy trong nhà trường là một mục tiêu lớn đầy thách thức.

Chủ trương đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học đặt ra cho ngành giáo dục những nhiệm vụ không nhỏ. Tiếng Anh không chỉ nằm trong tiết học ngoại ngữ mà phải được “cài” vào tất cả các môn học. Ngôn ngữ tiếng Anh hiện diện khắp các hoạt động trong môi trường học đường.
Gần 90% giáo viên đạt chuẩn
Bộ GD&ĐT đang xây dựng Đề án quốc gia “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn 2045”. Năm nay, cũng là năm kết thúc đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025.
Bà Nguyễn Thị Mai Hữu, Trưởng Ban Quản lí Đề án Ngoại ngữ Quốc gia, Bộ GD&ĐT, cho biết, sau thời gian triển khai đề án, việc sử dụng ngoại ngữ của đội ngũ giảng dạy, học sinh, sinh viên tăng lên trong học tập và nghiên cứu. Số lượng học sinh, sinh viên đủ năng lực ngoại ngữ du học và đạt học bổng các trường ĐH nước ngoài tăng lên. Tỉ lệ học sinh làm quen tiếng Anh lớp 1 - 2 tăng từ 43% năm 2020 lên 69% năm 2024. Tỉ lệ học sinh mầm non được làm quen Chương trình tiếng Anh tăng dần đến nay là 28,5%. Tỉ lệ học sinh có chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế dự xét tốt nghiệp và tuyển sinh tăng đều các năm trong đó tiếng Anh tăng 11 - 14%. Tỉ lệ giáo viên ngoại ngữ đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ tăng 22% (tăng từ 66% năm 2018 lên 88% năm 2025). Tỉ lệ học sinh được học tiếng Anh hệ 10 năm theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đạt trên 99% (trong đó học sinh tiểu học từ lớp 3 - 5 đạt 100%).
Nhưng quá trình triển khai đề án cũng bộc lộ những hạn chế như: năng lực sử dụng ngoại ngữ thực tiễn của học sinh và giáo viên chưa đạt kì vọng; việc dạy học còn thiên về “học ngoại ngữ” hơn là “học ngôn ngữ”; chính sách dành cho giáo viên ngoại ngữ và xã hội hóa trong lĩnh vực này chưa được quan tâm đúng mức. Năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên chưa đạt được yêu cầu…
Đề án đã hỗ trợ địa phương, nhưng ở vùng sâu, vùng xa vẫn còn rất nhiều khó khăn với người dạy, người học. Đây cũng là những vùng trũng về dạy và học ngoại ngữ thời gian qua.
Nhiều bất cập trong thực tế
PGS.TS Phạm Thị Hồng Nhung, Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại ngữ (ĐH Huế) chia sẻ, những thầy cô tham gia lớp học bồi dưỡng có người phải vật lộn 7 - 8 năm mới đạt chuẩn. Chặng đường đó là áp lực kinh khủng đối với họ. Bà Nhung cho biết, thời điểm triển khai kiểm tra, đánh giá trình độ giáo viên dạy ngoại ngữ, giáo viên cũng như nhà quản lí đều hoang mang. Đến khi có kết quả, giáo viên không được nhận trực tiếp, gửi về trường. Các nhà trường công bố công khai danh tính những giáo viên chưa đạt chuẩn.
Từ tình huống đó, giáo viên lên lớp hằng ngày giảng dạy học sinh với “nhãn mác” chưa đạt chuẩn. Thậm chí thông tin đó còn được nhắc đi nhắc lại tại các cuộc họp của nhà trường. Đến khi bồi dưỡng cũng cấp tập, giáo viên vừa học trong hè, vừa học trong những ngày cuối tuần. Thời gian nâng chuẩn vừa qua, những giáo viên này cảm thấy có nhiều áp lực.
“Có giáo viên nói với tôi rằng, có đồng nghiệp đạt chuẩn C1 nhưng kết quả kiểm tra của học sinh thấp hơn lớp em dạy. Đó là động lực để em tiếp tục học tập, giảng dạy để nâng chuẩn”, bà Nhung nói. Có giáo viên vận dụng chính phương pháp đã dạy cho học sinh đó là chấp nhận mình yếu hơn để có can đảm vượt qua. “Giáo viên nói rằng họ “đau” lắm khi trải qua giai đoạn vừa qua”, bà Nhung cho hay.
Theo trường ÐH Ngoại ngữ (ÐH Quốc gia Hà Nội), trong số 1.000 tân sinh viên 2 ngành ngôn ngữ Anh và sư phạm tiếng Anh có 700 em đạt trình độ chuẩn đầu ra C1 (bậc 5), 250 em đạt B2 (bậc 4), chỉ có 50 em là B1 (bậc 3). Năng lực ngoại ngữ của học sinh Việt Nam đạt ở trình độ xét tuyển ÐH phần lớn là do đầu tư của phụ huynh cho con học thêm tại các trung tâm ngoại ngữ. Trước năm 2025, khi ngoại ngữ là môn bắt buộc, phổ điểm môn ngoại ngữ thể hiện rất rõ điều này khi có 2 đỉnh.
Bà Nhung cho rằng, giáo viên thực sự bị sang chấn tâm lí. Chia sẻ những điều này, không phải để biện minh cho giáo viên mà là để rút kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo, khi thực hiện tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học. Khi đó, giáo viên tất cả các môn học đều phải được tập huấn, bồi dưỡng.
Bà Nguyễn Thị Mai Hữu cho hay, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học nghĩa là trở thành ngôn ngữ giao tiếp, giảng dạy trong nhà trường. Không chỉ vậy, mục tiêu lớn hơn là tất cả giáo viên có thể dạy học bằng tiếng Anh. TS Mai Hữu thừa nhận, đây là một thách thức: “Việc học riêng tiếng Anh đã khó, chưa kể áp dụng tiếng Anh vào giảng dạy cho tất cả các môn học khác ở trong nhà trường. Nhiều trường, nhiều địa phương rất thiếu thốn, nhưng vẫn nỗ lực thực hiện chủ trương đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học, đây là điều rất đáng trân quý và vì mục tiêu chung của giáo dục”.
Với vai trò là nhà quản lí, bà Hữu cho rằng, để triển khai được chủ trương lớn này, cần sự đầu tư hơn nữa vào cơ sở vật chất, hỗ trợ trang thiết bị từ các đơn vị, tổ chức. Bà mong các đơn vị cùng chung tay để các cơ sở giáo dục địa phương có thể vượt khó, đáp ứng được mục tiêu đề ra trong lồng ghép tiếng Anh vào nhiều môn học.