Từ thuở hồng hoang đến nay, vùng đất này ngày một rộng mở hơn và bề dày truyền thống sùng văn chuộng võ của miền đất biển này ngày thêm được bồi tụ.
Theo CTTĐT, huyện Thái Thụy có diện tích hơn 256km2, nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Thái Bình. Địa danh Thái Thụy với tên gọi một huyện đã xuất hiện trên bản đồ Việt Nam từ năm 1969, trên cơ sở sáp nhập huyện Thái Ninh và huyện Thụy Anh. Khi thành lập, Thái Thụy là huyện có diện tích và dân số lớn vào bậc nhất của tỉnh Thái Bình với 48 xã, thị trấn.
Thực hiện việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp xã vào năm 2020, Thái Thụy có 36 xã, thị trấn.
Vào đầu thế kỷ XIX, sử gia Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí: “Huyện Thụy Anh thì người cứng cỏi (võ)... Huyện Thanh Lan (Thái Ninh) thì đứng đầu cả xứ miền dưới về học hành, khoa cử (văn)...”. Đó là một nhận định mang tính khái quát, tương đối sát với lịch sử. Tuy nhiên, lịch sử cũng đã chứng minh là Thái Ninh và Thụy Anh đều rạng ngời cả về văn lẫn võ.
Từ thời Hai Bà Trưng (40-43) đất ven sông Hóa, sông Diêm đã có những thủ lĩnh đứng lên chống giặc Hán, nay vẫn còn đền thờ ở các làng ven hai sông. Giai đoạn từ năm 544-602, dân cư ở những rẻo đất cao như Sơn Đường, Hoành Sơn, Man Sơn... đều theo Lý Bí khởi nghĩa...
Thời Lê (thế kỷ XV-XVII), miền đất Thái Thụy có nhiều người làm quan đến hàm Thượng thư (tương đương Bộ trưởng) như Hình bộ Thượng thư Nguyễn Mậu (làng Bích Du, xã Thái Thượng); Hình bộ Thượng thư Nguyễn Công Định (làng Văn Hàn, xã Thái Hưng); Hình bộ Thượng thư Quách Đình Bảo (làng Phúc Khê, xã Thái Phúc); Lại bộ Thượng thư Quách Hữu Nghiêm (em trai Quách Đình Bảo); Hộ bộ Thượng thư kiêm Lễ bộ Thượng thư Đinh Trinh (làng Vị Khê, xã Dương Hồng Thủy)...
Đầu thời Nguyễn (thế kỷ XIX) Tiến sĩ Phạm Thế Hiển (làng Luyến Khuyết, xã Thụy Phong) là một trí thức đại khoa kiêm toàn đức tài, văn võ. Sau khi thi đỗ ông đã được giao nhiều chức tước cả ngạch văn và ngạch võ ở trong triều ngoài trấn. Khi Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, Phạm Thế Hiển là người kiên trì chủ chiến, được giao chức Tham tán quân vụ cùng Nguyễn Tri Phương lo chống giặc, bảo vệ Gia Định và qua đời tại Phú Yên khi đang trên đường về Kinh thành Huế.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, Tạ Hiện (làng Quang Lang, xã Thụy Hải) khi đang làm Đề đốc Định An (Nam Định - Hưng Yên), thấy cảnh bạc nhược của triều đình Huế bèn từ quan, đứng ra tập hợp nghĩa quân vũ trang chống Pháp và đã liên kết được phong trào rộng khắp ở Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng... khi quân Pháp tiến đánh Bắc Kỳ lần thứ hai (1883).
Khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương (1885) đã phong Tạ Hiện làm Đô thống quân vụ Bắc Kỳ. Cuối cùng, do hoàn cảnh lịch sử, cuộc vũ trang Cần Vương của Tạ Hiện và các thủ lĩnh khác đã lần lượt thất bại và ông bị Pháp sát hại vào năm 1892.
Đầu tháng 2/1930, khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị thống nhất 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Đức Cảnh - một người con ưu tú của Thái Thụy là một trong năm người tham gia sáng lập Đảng.
Trong kháng chiến chống Pháp, Thái Thụy có những làng kháng chiến tiêu biểu như Thần Đầu, Thần Huống, Quang Lang, An Định, An Cố, Phúc Khê, Kha Lý... Thái Thụy là huyện có những con người đã gắn liền với lịch sử dân tộc: Tạ Quốc Luật, người chỉ huy bắt sống tướng De Castries trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954; Bùi Quang Thận, người cắm cờ chiến thắng lên dinh Độc Lập năm 1975...
Theo Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình, huyện Thái Thụy có tới 1/3 số xã được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Về phương diện học hành, khoa cử, Thái Thụy là đất học. Trải qua hơn 900 năm khoa cử thời Nho học ở Việt Nam, bảng vàng bia đá đã ghi danh gần 3.000 Tiến sĩ, trong đó Thái Bình có gần 120 vị, riêng huyện biển Thái Thụy có tới 25 vị với những làng khoa bảng nổi tiếng như Phúc Khê, Kha Lý, Luyến Khuyết, Văn Hàn, An Tiêm…
Ở nơi cận kề chân sóng, mặn mòi vị biển mà học phong như thế thì thật đáng tự hào. Nhưng điều đáng chú ý là hầu hết các “ông nghè” quê Thái Thụy đều hiển đạt công danh sự nghiệp, trong đó có những nhà giáo tài ba đã đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước và có những người thơ hay, sứ giỏi đã làm rạng rỡ nước non Đại Việt.