Làm gì để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% năm 2024?
Kinh tế Việt Nam và thế giới đã có những dấu hiệu phục hồi trong những tháng cuối năm 2023. Động lực tăng trưởng nào để Việt Nam có thể đạt được mục tiêu 6-6,5% trong năm 2024?
PV VietNamNet có cuộc trao đổi với TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách Tài chính - Tiền tệ Quốc gia xung quanh vấn đề này.
PV: Thưa ông, tăng trưởng GDP năm 2023 dù không đạt được mục tiêu đặt ra ban đầu là 6-6,5%, nhưng đây vẫn là mức tăng trưởng cao so với khu vực và thế giới. Mức tăng trưởng này theo ông có phản ánh đúng thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2023 vừa qua?
TS. Cấn Văn Lực: Mức tăng trưởng 5,05% tương đối thấp so với các năm và so với mục tiêu ban đầu đề ra. Tuy nhiên, con số này thể hiện được sự nỗ lực, cố gắng cao của cả hệ thống khi năm 2023 thách thức, khó khăn, rủi ro cả bên trong và bên ngoài đều rất lớn, ngoài dự báo và khó lường.
Đặc biệt, sức cầu về tiêu dùng, đầu tư trên thế giới giảm, thị trường tài chính - tiền tệ, bất động sản toàn cầu ở mức nhiều rủi ro, khó khăn, trong bối cảnh lạm phát, lãi suất toàn cầu ở mức cao.
Trong năm qua, cả Quốc hội và Chính phủ rất quyết liệt, ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế. Kinh tế phục hồi rõ nét từ đầu quý III, thể hiện qua số liệu quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng trưởng 3,41%, quý II là 4,25%, quý III tăng 5,47% và quý IV là 6,72%).
Các động lực tăng trưởng như xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng đang phục hồi dần, dù còn chậm. Lạm phát được kiểm soát tương đối tốt (bình quân tăng 3,25%) trong khi lạm phát toàn cầu khoảng 5,5% dù lượng cung tiền năm 2023 tăng gấp đôi so với mức của năm 2022, chủ yếu là do ta kiểm soát tốt nguồn cung và giá cả hàng thiết yếu như xăng dầu, lương thực - thực phẩm và nhà ở, vật liệu xây dựng…
Thu hút FDI phục hồi ấn tượng, tăng 32,1% về vốn đăng ký và bổ sung, tăng 3,5% về vốn thực hiện trong bối cảnh dòng vốn FDI toàn cầu năm 2023 giảm khoảng 2%. Đầu tư công cũng là điểm sáng khi hoàn thành được khoảng 85% kế hoạch, tăng khoảng 21% so với cùng kỳ. Hy vọng, hết tháng 1/2024 – tháng gối đầu theo thông lệ, giải ngân đầu tư công sẽ đạt được mục tiêu 95% như Thủ tướng Chính phủ đề ra.
Các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối xuất – nhập khẩu, thu - chi ngân sách, cung – cầu lao động… được bảo đảm, rủi ro về tài khóa (nợ công, nợ nước ngoài, thâm hụt ngân sách, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ….) ở mức trung bình. Mặt bằng lãi suất giảm dần, tỷ giá cơ bản ổn định. Điều này được quốc tế đánh giá cao và chính vì vậy, Fitch Ratings nâng hạng hệ số tín nhiệm Việt Nam lên BB+ và đánh giá triển vọng là “ổn định”.
Tiếp đến, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi năng lượng của Việt Nam đã tiến triển tích cực; trong đó tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam giai đoạn 2023-2025 dự báo khoảng 20%/năm, cao nhất khu vực ASEAN (theo Google &Temasek 2023). Thu hút tài chính xanh đạt kết quả bước đầu quan trọng.
Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả quan trọng, đặc biệt là các chuyến thăm cấp cao, gắn với việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với một số đối tác lớn, tạo nền tảng để khai thác cơ hội về thương mại, đầu tư, du lịch, ứng phó biến đổi khí hậu, đổi mới sáng tạo… tốt hơn thời gian tới.
Năm 2023, một trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy phục hồi nêu trên là Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các lĩnh vực như y tế, đầu tư công, đất đai, xây dựng, bất động sản, du lịch và quy hoạch… Nhiều quy hoạch vùng, tỉnh thành được ban hành; nhiều luật quan trọng như Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh Bất động sản sửa đổi, Luật giá, Luật giao dịch điện sửa đổi… được thông qua và tới đây là Luật Đất đai, Luật tổ chức tín dụng sửa đổi… Đây sẽ là những nền tảng, khung pháp lý quan trọng, tạo cơ sở phát triển an toàn, lành mạnh và bền vững hơn thời gian tới.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều thách thức, khó khăn.
Đó là những rủi ro bên ngoài rất lớn, liên quan đến địa chính trị, rủi ro tài chính, nợ công, nợ tư toàn cầu; an ninh năng lượng, lương thực; biến đổi khí hậu bất thường… Những yếu tố này tiếp tục tác động mạnh đến sức cầu của thế giới, chắc chắc sẽ còn tác động tới xuất khẩu, đầu tư và du lịch của Việt Nam thời gian tới.
Hoạt động xuất - nhập khẩu dù đang phục hồi nhưng vẫn giảm, cả năm tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giảm khoảng 6,6%; trong đó, xuất khẩu giảm 4,4%. Đây là điều đáng lưu ý bởi thông thường xuất khẩu Việt Nam hiếm khi giảm; có lẽ đây là năm đầu tiên từ năm 2011 đến giờ, xuất khẩu giảm.
Theo đó, sản xuất công nghiệp gắn với xuất khẩu đang phục hồi nhưng còn chậm, cả năm chỉ tăng khoảng 3% - là mức thấp nhất từ năm 2011 trở về đây. Thu ngân sách giảm, cả năm giảm khoảng 5,4%, mức giảm sâu này cũng là điều ít thấy, khiến dư địa tài khóa eo hẹp hơn.
Doanh nghiệp còn rất nhiều khó khăn về pháp lý, dòng tiền, chi phí đầu vào tăng trong khi đầu ra phục hồi chậm; nhất là tình trạng cán bộ công chức sợ sai, sợ trách nhiệm còn phổ biến vẫn là rào cản lớn. Số lượng doanh nghiệp tạm đóng cửa, ngừng kinh doanh vẫn tăng 20,7% so với cùng kỳ.
Hoàn thiện thể chế liên quan đến các động lực tăng trưởng mới như kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng còn chậm. Đặc biệt, việc cơ cấu lại nền kinh tế, nhất là dự án yếu kém, doanh nghiệp và tổ chức tín dụng yếu kém còn chậm so với yêu cầu.
Đầu tư tư nhân tăng khá thấp, cả năm chỉ tăng 2,7%; thông thường con số này phải tăng gấp 2 - 3 lần.
Thị trường trái phiếu, bất động sản, thị trường vàng còn nhiều rủi ro; đòi hỏi cần quyết liệt hơn trong thời gian tới.
Cuối cùng, chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện khi năng suất lao động tăng thấp (chỉ tăng 3,65%, thấp hơn mức 4,8% năm 2022 và khá xa so với kế hoạch 2021-2025 là 6,5%/năm); đóng góp của TFP vào tăng trưởng ước đạt 44% (tương đương năm 2022), thấp hơn mức bình quân 45,7% giai đoạn 2016-2020 và mục tiêu là 45% giai đoạn 2021-2025.
- Với những giải pháp gỡ khó của Chính phủ cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản, cùng những nỗ lực đẩy mạnh đầu tư công, theo ông, bức tranh kinh tế năm 2024 sẽ như thế nào?
Tôi cho rằng, với thế giới, năm 2024, dự báo mức độ tăng trưởng không được như năm 2023, đi ngang hoặc giảm. Lý do chủ yếu là nền kinh tế Mỹ, kinh tế Trung Quốc năm 2024 được dự báo tăng trưởng chậm hơn năm trước, trong khi kinh tế của châu Âu, Nhật Bản, Anh có thể phục hồi tốt hơn, nhưng không đáng kể.
Do đó, sức cầu đối với xuất nhập khẩu, đầu tư, tiêu dùng của thế giới dù phục hồi tốt lên nhưng vẫn còn yếu. Theo đó, các động lực tăng trưởng truyền thống của Việt Nam như xuất khẩu, đầu tư (nhất là đầu tư tư nhân), tiêu dùng tiếp đà phục hồi, nhưng sẽ còn chậm và mức tăng chưa bằng giai đoạn trước dịch Covid-19. Nếu xét theo phía cung, nông nghiệp duy trì đà tăng trưởng khá, nhưng công nghiệp và một số lĩnh vực dịch vụ phục hồi còn chậm.
Do vậy, dự báo năm 2024, Việt Nam có thể tăng trưởng 6 - 6,5%; lạm phát trong tầm kiểm soát ở mức 3,5 – 4%. Các mục tiêu này là khả thi khi các động lực tăng trưởng đang phục hồi tích cực và hy vọng Việt Nam phát huy tốt hơn các động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh, chuyển đổi năng lượng, liên kết vùng và tăng năng suất lao động…
Các luật quan trọng nếu trên được thông qua, năm tới sẽ bắt đầu triển khai dần, sẽ có tác động tích cực đối với doanh nghiệp, thị trường. Niềm tin với thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp được kỳ vọng hồi phục tốt hơn.
- Vậy, những giải pháp, chính sách để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 là gì, thưa ông?
Theo tôi, cần tập trung quyết liệt hơn nữa vào 6 nhóm giải pháp chính.
Đầu tiên là năm 2024 phải quyết liệt hơn trong việc cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh, đặc biệt liên quan đến thực thi công vụ; cần có đột phá, nếu không sẽ rất khó.
Hai là, thúc đẩy đà phục hồi của các động lực tăng trưởng truyền thống cùng với việc phát huy tốt hơn các động lực tăng trưởng mới nêu trên. Trong đó, cần khai thác tốt hơn những FTAs đã ký kết, những cơ hội có được trong việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược vừa qua; phát triển kinh tế số và kinh tế xanh một cách bài bản, thực chất và mang tầm chiến lược.
Ba là, kiên định đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh bên ngoài và nội tại còn nhiều rủi ro, thách thức; không chủ quan với vấn đề an ninh năng lượng, an ninh lương thực, chủ động thích ứng biến đổi khí hậu…
Bốn là, quan tâm hơn đến tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế; nhất là những doanh nghiệp, tổ chức tín dụng yếu kém. Nếu không quyết liệt tháo gỡ, đẩy nhanh tiến trình này sẽ gây ách tắc, vì đây chính là những “cục máu đông”, khiến phân bố nguồn lực kém hiệu quả và chi phí tốn kém.
Năm là, phải sớm đẩy nhanh, hoàn thiện thể chế kinh tế, nhất là thể chế cho cả các động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng; thực hiện tốt hơn khâu quy hoạch, triển khai các quy hoạch đã ban hành. Trong đó, cả nền kinh tế nói chung và các địa phương nói riêng cần tính toán, hài hòa mục tiêu ngắn và dài hạn, sách lượng và chiến lược, chính sách dài hơi hơn, chứ không chỉ tập trung các vấn đề trước mắt. Đây cũng là cách để chúng ta tăng sức chống chịu của nền kinh tế.
Cuối cùng, để làm được những việc trên, vấn đề nâng cao chất lượng tăng trưởng vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng. Theo đó, nhiệm vụ tăng năng suất lao động gắn với cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, ứng dụng khoa học công nghệ, cải cách cơ chế tuyển dụng - đánh giá cán bộ - tiền lương của đội ngũ công viên chức là cấp thiết.
Xin cảm ơn ông!
>> Infographic tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2023