Thứ trưởng Phùng Đức Tiến: Giữ vững nhịp 5,96 tỷ USD/tháng, nông nghiệp Việt sẽ lập kỷ lục 70 tỷ USD xuất khẩu
"Nếu hai tháng cuối năm, duy trì mức xuất khẩu 5,96 tỷ USD/tháng như tháng 10/2025, toàn ngành kỳ vọng có thể cán mốc kỷ lục 70 tỷ USD", Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhận định.
Xuất khẩu tăng gần 13%, nhiều nhóm hàng bứt phá mạnh
Tại buổi họp báo công bố kết quả sản xuất – kinh doanh 10 tháng năm 2025 diễn ra sáng 5/11, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, riêng tháng 10, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 5,96 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2024. Tính chung 10 tháng, tổng giá trị xuất khẩu đạt 58,13 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước, một bước tiến đáng kể trong bối cảnh kinh tế toàn cầu vẫn nhiều biến động.
Trong đó, nông sản đạt 31,34 tỷ USD (tăng 15,5%), thủy sản đạt 9,31 tỷ USD (tăng 12,9%), lâm sản đạt 14,93 tỷ USD (tăng 5,8%), sản phẩm chăn nuôi đạt 512,9 triệu USD (tăng 19%), trong khi xuất khẩu đầu vào phục vụ sản xuất tăng tới 31,9%, đạt 2,03 tỷ USD. Đáng chú ý, xuất khẩu muối đạt 9,5 triệu USD, gấp đôi so với cùng kỳ năm 2024, cho thấy sự đa dạng hóa rõ nét của các nhóm sản phẩm nông nghiệp.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, châu Á tiếp tục dẫn đầu, chiếm 44,7% kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam, theo sau là châu Mỹ (22,7%) và châu Âu (13,8%). Đáng chú ý, xuất khẩu sang châu Âu tăng 37,5%, châu Phi tăng 83,6%, cho thấy xu hướng mở rộng thị trường, giảm phụ thuộc khu vực truyền thống.
Ở cấp quốc gia, Trung Quốc vượt Hoa Kỳ, trở thành thị trường lớn nhất với 21,4% thị phần (tăng 12%); Hoa Kỳ đạt 20,4% (tăng 6,2%), và Nhật Bản 7% (tăng 20,4%), phản ánh đà phục hồi mạnh mẽ của nông sản Việt tại châu Á.

Trong 10 tháng đầu năm, nhiều mặt hàng chủ lực đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Cà phê tiếp tục là “ngôi sao sáng” khi đạt 1,3 triệu tấn với giá trị 7,41 tỷ USD, tăng 61,8% về giá trị và 13,5% về khối lượng. Giá xuất khẩu bình quân đạt 5.653 USD/tấn, tăng 42,5%, mức cao nhất trong nhiều năm. Đức, Italia và Tây Ban Nha là ba thị trường nhập khẩu lớn nhất, đều tăng trưởng trên 50%.
Rau quả cũng giữ đà bứt phá, đạt 7,09 tỷ USD, tăng 15,1%. Trong đó, Trung Quốc chiếm tới 62,9% thị phần, song điểm nổi bật là xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng tới 59,8%, còn Malaysia tăng 70,2%, phản ánh nỗ lực đa dạng hóa thị trường và nâng cao tiêu chuẩn sản phẩm.
Hạt điều duy trì vị thế ổn định, đạt 4,25 tỷ USD, tăng 18,6%, trong khi hạt tiêu ghi nhận mức tăng 25,8% về giá trị dù giảm nhẹ về khối lượng nhờ giá bình quân tăng hơn 33%.
Ở nhóm lâm sản, gỗ và sản phẩm gỗ vẫn là “trụ cột” với 13,96 tỷ USD, chiếm gần 1/4 tổng kim ngạch nông nghiệp, trong đó Hoa Kỳ chiếm 55,8% thị phần, Nhật Bản tăng 25,1%, còn Trung Quốc giảm nhẹ.
Ngược lại, xuất khẩu gạo trong 10 tháng đạt 7,2 triệu tấn, trị giá 3,7 tỷ USD, giảm 6,5% về khối lượng và 23,8% về giá trị do giá xuất khẩu bình quân giảm còn 511 USD/tấn. Tuy nhiên, cơ cấu thị trường lại có chuyển biến tích cực: Trong khi xuất khẩu sang Philippines giảm mạnh, thì sang Ghana tăng 47,3% và Bờ Biển Ngà tăng gần gấp đôi.
Cao su cũng ghi nhận sự điều chỉnh tương tự: sản lượng giảm 5,4%, song giá trị tăng 1,7% nhờ giá xuất khẩu bình quân đạt 1.761 USD/tấn, tăng 7,6%. Trung Quốc vẫn là thị trường chủ lực (71% thị phần), trong khi xuất khẩu sang Indonesia tăng gấp đôi.
Đánh giá kết quả 10 tháng, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam đang phục hồi mạnh mẽ và bắt nhịp rất tốt với xu hướng tiêu dùng toàn cầu.
“Với kết quả hiện nay, dự báo kim ngạch xuất khẩu cả năm sẽ vượt xa mục tiêu 65–67 tỷ USD. Nếu hai tháng cuối năm tiếp tục duy trì mức khoảng 5,96 tỷ USD/tháng như tháng 10, toàn ngành hoàn toàn có thể cán mốc kỷ lục 70 tỷ USD xuất khẩu”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Theo ông Tiến, để duy trì đà tăng trưởng này, ngành Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục thúc đẩy chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, nâng cao năng lực chế biến, đa dạng hóa thị trường và giảm rủi ro phụ thuộc, đồng thời xây dựng thương hiệu quốc gia cho nông sản chủ lực như cà phê, gạo, rau quả, gỗ, thủy sản.
