Tỉnh giàu có phía Bắc dự kiến không thực hiện sáp nhập: Có quá trình chia tách, hợp nhất phức tạp, được mệnh danh là ‘Việt Nam thu nhỏ’
Địa phương hiện có quá trình phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của khu vực Đồng bằng sông Hồng.
Bộ Nội vụ vừa có Tờ trình gửi Chính phủ về dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính. Trong đó, tiêu chí diện tích tự nhiên và quy mô dân số được xác định theo quy định tại Nghị quyết số 1211 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (sửa đổi, bổ sung tại Nghị quyết số 27 năm 2022).
Theo Bộ Nội vụ, căn cứ các tiêu chí định hướng này, dự kiến cả nước chỉ còn 11 đơn vị hành chính cấp tỉnh là giữ nguyên, trong đó có tỉnh Quảng Ninh. Các tỉnh thành còn lại gồm: Hà Nội, Huế, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.

Tỉnh Quảng Ninh là vùng đất nằm ở Đông Bắc Tổ quốc, nơi đây còn được ví như một "Việt Nam thu nhỏ" bởi có đa dạng các loại địa hình từ đồng bằng, vùng núi, ven biển,... Không chỉ nổi bật bởi cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ với di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, Quảng Ninh còn mang trong mình lịch sử hình thành, chia tách, sáp nhập phức tạp, phản ánh quá trình định hình địa giới hành chính gắn liền với các chiến lược phát triển kinh tế, quốc phòng và văn hóa qua nhiều thời kỳ.
Theo tư liệu lịch sử, Quảng Ninh từng thuộc bộ Lục Hải - một trong 15 bộ của nước Văn Lang thời Hùng Vương. Sang thời phong kiến, khu vực này trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới. Thời Lý - Trần, tỉnh thuộc phủ Tân An, châu Vân Đồn; thời Lê – Nguyễn thuộc tỉnh Hải Dương và sau đó là tỉnh Quảng Yên (được thành lập năm 1831 dưới triều Minh Mạng).
Đầu thế kỷ XX, khi người Pháp phát hiện và khai thác than tại khu vực Hòn Gai, Cẩm Phả, vùng đất này dần trở thành trung tâm công nghiệp than quan trọng của Đông Dương. Năm 1906, thực dân Pháp thành lập "đặc khu mỏ Hòn Gai" – một đơn vị hành chính đặc biệt tách khỏi tỉnh Quảng Yên, đặt dưới sự quản lý trực tiếp của chính quyền Pháp.
Thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám, địa phương trải qua nhiều lần chia tách, hợp nhất. Theo đó, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng Việt Nam từng bước khôi phục và tổ chức lại bộ máy hành chính. Đặc khu mỏ Hòn Gai được đổi tên thành khu Hồng Gai và trở lại thuộc tỉnh Quảng Yên. Đến năm 1955, Chính phủ thành lập khu Hồng Quảng, gồm đặc khu Hồng Gai và vùng mỏ Cẩm Phả, đây là khu vực giàu tài nguyên và có vị trí chiến lược về công nghiệp nặng.
Năm 1963, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử hành chính vùng Đông Bắc khi Quốc hội khóa II thông qua Nghị quyết hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng để thành lập tỉnh Quảng Ninh. Đây là sự kiện sáp nhập quy mô lớn, mang ý nghĩa chiến lược nhằm tăng cường quản lý, khai thác hiệu quả tiềm năng than, biển, cảng và biên giới, cũng như đảm bảo quốc phòng trước tình hình khu vực phức tạp.
Tỉnh Hải Ninh trước đó bao gồm phần đất phía Đông tỉnh Quảng Ninh ngày nay, với trung tâm là thị xã Móng Cái, tiếp giáp với Trung Quốc.
Khu Hồng Quảng bao gồm các vùng mỏ trọng điểm như Hòn Gai, Cẩm Phả, Uông Bí – nơi tập trung công nhân công nghiệp nặng, đặc biệt là khai thác than.
Sau khi sáp nhập, tỉnh Quảng Ninh mới bao gồm toàn bộ khu vực ven biển Đông Bắc, từ Móng Cái đến Uông Bí và có đường biên giới dài hơn 100km giáp Trung Quốc.

Từ sau khi hình thành tỉnh Quảng Ninh, địa giới hành chính không có sự thay đổi lớn về cấp tỉnh, tuy nhiên, các đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã, thành phố liên tục được điều chỉnh để phù hợp với tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa và nhu cầu phát triển.
Năm 1993, thị xã Hồng Gai được nâng cấp lên thành phố Hạ Long, trở thành trung tâm hành chính và du lịch của tỉnh.
Tiếp đó, TP. Uông Bí được thành lập năm 2011; TP. Cẩm Phả năm 2012; TP. Móng Cái năm 2008; TP. Đông Triều năm 2015. Năm 2019, HĐND tỉnh thông qua Nghị quyết sáp nhập huyện Hoành Bồ vào TP. Hạ Long. Từ ngày 1/11/2024, thị xã Đông Triều chính thức trở thành thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Như vậy, tính đến nay, tỉnh Quảng Ninh có 13 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 5 thành phố (Hạ Long, Cẩm Phả, Uông Bí, Móng Cái, Đông Triều), 2 thị xã (Quảng Yên, Đông Triều) và 7 huyện (Vân Đồn, Cô Tô, Tiên Yên, Ba Chẽ, Đầm Hà, Hải Hà, Bình Liêu). Đây là một trong những tỉnh có mô hình đô thị hóa cao nhất cả nước, với mạng lưới thành phố, thị xã phủ khắp.
Trong hơn hai thập kỷ qua, Quảng Ninh đã có bước chuyển mình mạnh mẽ từ một tỉnh công nghiệp khai khoáng truyền thống sang mô hình phát triển kinh tế đa ngành, trong đó lấy dịch vụ, du lịch, công nghiệp công nghệ cao và kinh tế biển làm động lực.
Giai đoạn 2010-2020, Quảng Ninh đạt mức tăng trưởng GRDP bình quân khoảng 10,7%/năm, thuộc nhóm cao nhất cả nước. Tỷ trọng khu vực dịch vụ và công nghiệp - xây dựng liên tục gia tăng, giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác than.
Cơ sở hạ tầng được đầu tư mạnh mẽ với đường cao tốc Hạ Long - Hải Phòng, Hạ Long - Vân Đồn, cầu Bạch Đằng, sân bay Vân Đồn, cảng biển nước sâu và hệ thống logistics đồng bộ.
Đặc biệt, tỉnh đã thành công trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang kinh tế xanh, bền vững, chú trọng bảo tồn thiên nhiên, khai thác di sản (vịnh Hạ Long) và thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp sạch.
Theo Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 11/2/2023, xác định rõ, xây dựng Quảng Ninh trở thành trung tâm phát triển năng động toàn diện phía Bắc, là hạt nhân của vùng Đông Bắc, cửa ngõ giao thương quốc tế qua cảng biển và biên giới đất liền.
Đến năm 2030, Quảng Ninh là tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, phát triển kinh tế xanh bền vững, nằm trong nhóm tỉnh có GRDP bình quân đầu người cao nhất cả nước.
Quảng Ninh là tỉnh ở vị trí địa đầu Đông Bắc của Việt Nam với diện tích 6.102km2, dân số 1,4 triệu người (số liệu năm 2019). Đây là tỉnh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, vừa thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Quảng Ninh có đường biên giới trên bộ với Trung Quốc dài 132,8km.
Theo Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) năm 2024 của Quảng Ninh tăng 8,42%, đứng thứ 6 trong vùng Đồng bằng sông Hồng và đứng thứ 20 cả nước. Quy mô GRDP theo giá hiện hành ước đạt 347,5 nghìn tỷ đồng, đứng thứ 3 vùng Đồng bằng sông Hồng, đứng thứ 7 cả nước.