Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 107,16 tỷ USD, giảm 13%, tương ứng giảm 16,08 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2022.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 4/2023 (từ ngày 16/4 đến ngày 30/4/2023) đạt 26,78 tỷ USD, tăng 2,7% (tương ứng tăng 702 triệu USD) so với kết quả thực hiện trong nửa đầu tháng 4/2023.
Kết quả, tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước trong 4 tháng/2023 đạt 206,76 tỷ USD, giảm 15,3% (tương ứng giảm 37,47 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 144,02 tỷ USD, giảm 15,1% (tương ứng giảm 25,68 tỷ USD); trị giá xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước là 62,74 tỷ USD, giảm 15,8% (tương ứng giảm 11,79 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước.
Về xuất khẩu, trong kỳ 2 tháng 4/2023 đạt 14,55 tỷ USD, tăng 9,9% (tương ứng tăng 1,3 tỷ USD về số tuyệt đối) so với kỳ 1 tháng 4/2023. Trong đó, một số nhóm hàng có trị giá tăng mạnh, gồm: Sắt thép các loại tăng 310 triệu USD, (tương ứng tăng 123,2%); máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác tăng 190 triệu USD (tương ứng tăng 12,1%); hàng dệt may tăng 184 triệu USD (tương ứng tăng 15,6%)...
Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 107,16 tỷ USD, giảm 13%, tương ứng giảm 16,08 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2022.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cũng cho thấy, trị giá xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ 2 tháng 4/2023 đạt 10,45 tỷ USD, tăng 9,4% tương ứng tăng 898 triệu USD so với kỳ 1 của tháng, qua đó nâng tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2023 của nhóm các doanh nghiệp FDI lên 79,1 tỷ USD, giảm 12,4% (tương ứng giảm 11,19 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước, chiếm 73,8% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.
Trị giá xuất khẩu của một số nhóm hàng lớn kỳ 2 tháng 4 năm 2023 so với kỳ 1 tháng 4 năm 2023. Nguồn: Tổng cục Hải quan. |
Từ chiều ngược lại, trị giá hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 4/2023 đạt 12,23 tỷ USD, giảm 4,8% (tương ứng giảm 613 triệu USD về số tuyệt đối) so với kết quả thực hiện trong nửa đầu tháng 4/2023.
Một số nhóm hàng có trị giá nhập khẩu trong kỳ 2 tháng 4/2023 giảm so với kỳ 1 trước đó là: điện thoại các loại và linh kiện giảm 140 triệu USD (tương ứng giảm 36,9%); máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện giảm 137 triệu USD (tương ứng giảm 4,4%); phế liệu sắt thép giảm 81 triệu USD, giảm 47,7%...
Như vậy, tính chung 4 tháng đầu năm 2023, tổng trị giá nhập khẩu của cả nước đạt 99,6 tỷ USD, giảm 17,7% (tương ứng giảm 21,38 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2022.
Trị giá nhập khẩu của một số nhóm hàng lớn kỳ 2 tháng 4 năm 2023 so với kỳ 1 tháng 4 năm 2023. Nguồn: Tổng cục Hải quan |
Trị giá nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ 2 tháng 4/2023 đạt 7,86 tỷ USD, giảm 5% (tương ứng giảm 415 triệu USD) so với kỳ 1 tháng 4/2023. Lũy kế 4 tháng đầu năm 2023, tổng trị giá nhập khẩu của nhóm các doanh nghiệp FDI đạt 64,92 tỷ USD, giảm 18,3% (tương ứng giảm 14,49 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước, chiếm 65,2% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước.
Với kết quả trên, trong kỳ 2 tháng 4/2023, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 2,33 tỷ USD. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 7,56 tỷ USD.
Đánh giá về kết quả xuất khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2023, Bộ Công Thương cho biết xuất khẩu của Việt Nam suy giảm là do các nền kinh tế lớn là đối tác xuất khẩu như Hoa Kỳ, EU giảm chi tiêu mua sắm các sản phẩm thông thường và xa xỉ khiến khối lượng đơn đặt hàng giảm. Mặt khác, kinh tế thế giới vẫn tiếp tục khó khăn dù có dấu hiệu phục hồi nhưng chậm và không đồng đều ở các quốc gia, nhu cầu tiêu dùng vì thế cũng phục hồi chậm.
Tuy nhiên, trong thời gian tới vẫn có những dấu hiệu tích cực. Cụ thể: Một số khu vực kinh tế lớn như Trung Quốc, Hoa Kỳ tăng trưởng cao hơn dự báo; một số nền kinh tế đang nổi tại châu Á như Ấn Độ, ASEAN tăng trưởng khả quan.
Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, Bộ Công Thương sẽ tập trung đổi mới và tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại hướng đến các thị trường mới, thị trường còn tiềm năng như Ấn Độ, châu Phi, Trung Đông và châu Mỹ La tinh, Đông Âu… và các thị trường ít bị ảnh hưởng bởi lạm phát và tăng trưởng khả quan (ASEAN).
Cùng với đó, quyết liệt đột phá vào các thị trường mới, nơi có tầng lớp trung lưu gia tăng như các thị trường mới nổi E7 (Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Mêxico và Indonesia; thị trường Halal (Trung Đông, Malaysia, Brunay).
Gỡ khó cho doanh nghiệp, thúc đẩy những dự án có tính động lực ở Bà Rịa-Vũng Tàu
Chưa từng có trong lịch sử: Thặng dư thương mại của Trung Quốc với thế giới sắp cán mốc 1.000 tỷ USD