65% nhân tài công nghệ cao đang ở nước ngoài: Việt Nam cần cơ chế để giữ chân và thu hút trở lại
Theo bà Mariam J. Sherman, Giám đốc Ngân hàng Thế giới phụ trách Việt Nam, Campuchia và Lào, gần 65% nhân tài công nghệ cao của Việt Nam trong các lĩnh vực trọng yếu như bán dẫn và công nghệ mới nổi hiện đang làm việc ở nước ngoài. Đây là thách thức lớn nhưng cũng là cơ hội nếu Việt Nam có cơ chế phù hợp để thu hút và giữ chân nhân tài.
Cần xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vững mạnh
Tại Diễn đàn Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển các ngành công nghệ chiến lược, bà Mariam J. Sherman, Giám đốc Ngân hàng Thế giới phụ trách Việt Nam, Campuchia và Lào cho hay Việt Nam cần đầu tư mạnh mẽ vào nhân tài.

Theo bà Mariam J. Sherman, trong ngành bán dẫn và các ngành công nghệ cao khác, Việt Nam sẽ không chỉ cần nhiều sinh viên tốt nghiệp hơn mà còn cần nhiều hơn nữa các kỹ thuật viên, nhà khoa học và kỹ sư đẳng cấp thế giới.
“Điều đó có nghĩa là cần có những hệ thống đào tạo nhân tài lớn hơn và tốt hơn, đồng thời việc thu hút và giữ chân nhân tài cũng rất quan trọng”, bà Mariam J. Sherman nêu.
Theo đại diện WB, gần 65% nhân tài công nghệ hàng đầu của Việt Nam trong các lĩnh vực công nghệ trọng yếu và mới nổi hiện đang làm việc ở nước ngoài. Việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn nhân tài này trở về cống hiến sẽ giúp Việt Nam đi tắt đón đầu, thu hẹp những khoảng cách về tri thức mà nếu không sẽ mất hàng thập kỷ để xây dựng.
Ngoài ra, cần xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vững mạnh—một hệ sinh thái kết nối cơ sở giáo dục đại học-viện nghiên cứu, Chính phủ, cùng các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.
Năm 2025, Việt Nam xếp hạng 44 trên 139 nền kinh tế trong Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu. Tuy nhiên, các công việc có giá trị cao hơn, như thiết kế sản phẩm, chế tạo, và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Từ năm 2010 đến 2020, Việt Nam đã nộp chưa đến 100 bằng sáng chế tại năm cơ quan sở hữu trí tuệ quốc tế hàng đầu, và gần như không có bằng nào trong lĩnh vực bán dẫn. Đây chính là dư địa để tăng trưởng.
Do đó, việc tăng cường đầu tư công và tư vào nghiên cứu và đổi mới sáng tạo là cực kỳ quan trọng, đặc biệt là vào hạ tầng R&D. Những đột phá trong công nghệ cao đòi hỏi các phòng thí nghiệm, dây chuyền tạo mẫu và sản xuất thử nghiệm (tiền thương mại), cùng các trung tâm đào tạo tiên tiến.
“Cần phát triển các trung tâm thiết kế bán dẫn quốc gia. Chúng ta có thể hình dung đây là những cơ sở vật chất đẳng cấp thế giới, nơi các cơ sở giáo dục đại học, nhà nghiên cứu và công ty khởi nghiệp có thể cùng chia sẻ quyền truy cập vào hệ thống máy tính hiệu năng cao, thư viện sở hữu trí tuệ, công cụ thiết kế tiên tiến, và dịch vụ chế tạo thử nghiệm đa dự án trên cùng một tấm wafer nhằm tạo mẫu và kiểm thử các thiết kế chip trước khi sản xuất thương mại”, bà Mariam J. Sherman chia sẻ.
Củng cố quan hệ hợp tác “3 nhà”
Theo bà Mariam J. Sherman, tại mọi trung tâm đổi mới sáng tạo thành công trên thế giới, các đại học là trụ đỡ cho nghiên cứu, phát triển và nhân tài; doanh nghiệp là nơi khởi nguồn và nhân rộng đổi mới sáng tạo; và chính phủ đóng vai trò kết nối.
Do đó, Việt Nam cần thắt chặt hơn nữa mối liên kết giữa các công ty trong nước của Việt Nam – đặc biệt là các DNNVV và các doanh nghiệp FDI.
Mục tiêu là giúp các công ty Việt Nam nắm bắt nhiều giá trị hơn từ chuỗi cung ứng toàn cầu, vươn lên từ vai trò nhà cung cấp đơn thuần sang đối tác đồng sáng tạo của các tập đoàn đa quốc gia.
Để thực hiện điều này, bà Mariam J. Sherman chia sẻ ý tưởng về một mô hình đối tác hợp tác nơi các doanh nghiệp FDI, công ty trong nước và chính phủ cùng đầu tư để nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp nội địa.
Ví dụ, mô hình này có thể tập trung vào phát triển nhà cung cấp, nơi một doanh nghiệp FDI cố vấn cho các DNNVV trong nước để đáp ứng các tiêu chuẩn toàn cầu về chất lượng, giao hàng và chứng nhận, với nguồn vốn từ chính phủ gắn liền với việc đạt được kết quả.
Ngoài ra, sáng kiến này cũng có thể hỗ trợ các dự án chung giữa FDI và doanh nghiệp trong nước để thử nghiệm các sản phẩm mẫu hoặc nội địa hóa các bộ phận quan trọng, tạo ra những điểm gia nhập trực tiếp vào chu trình sản xuất của một doanh nghiệp FDI.
“Lợi ích mang lại rất rõ ràng: tri thức sẽ ở lại và phát triển tại Việt Nam. Doanh nghiệp của các bạn sẽ giành được nhiều hợp đồng hơn và thăng tiến trong chuỗi giá trị toàn cầu. Và các bạn sẽ xây dựng – và giữ chân – một thế hệ nhân tài có kỹ năng cao trong nước”, bà Mariam J. Sherman nhận định.
Bà Mariam J. Sherman cho rằng Việt Nam cần tập trung vào một vài cụm đổi mới sáng tạo xuất sắc được lựa chọn kỹ lưỡng. Ví dụ, Trung Quốc đã xây dựng các hành lang đổi mới sáng tạo như hành lang kết nối Thâm Quyến, Hồng Kông và Quảng Châu. Hàn Quốc có Thành phố Khoa học Daedeok…
Điểm chung của những mô hình này là sự tập trung cao độ của các đại học đầu tàu, các công viên khoa học chung, các viện R&D và sự hiện diện mạnh mẽ của các công ty công nghệ cao, các công ty khởi nghiệp đầy tham vọng, và các nhà đầu tư nước ngoài lớn.
“Chúng ta đang có mặt tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc hôm nay. Hãy tưởng tượng 10 năm nữa, nơi đây sẽ là trung tâm của một cụm đổi mới sáng tạo về sản xuất tiên tiến – bán dẫn, y sinh tiên tiến, robot và tự động hóa. Từ đào tạo, R&D, tạo mẫu ban đầu cho đến sản xuất quy mô lớn… sẽ có thể thực hiện được ngay tại đây”, bà Mariam J. Sherman nói.
Theo bà Mariam J. Sherman, những cụm như vậy là những thỏi nam châm đầy sức hút đối với nhân tài và ý tưởng. Chúng truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ Việt Nam theo đuổi sự nghiệp trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, và chúng thu hút thêm nhiều người Việt trở về quê hương.