Đất nước Việt Nam từng tạm thời bị chia đôi ở vĩ tuyến 17, cây cầu cùng dòng sông tại đây cũng trở thành “điểm nối” hai nửa non sông.
Quảng Trị - “Bảo tàng sinh động nhất về di tích lịch sử chiến tranh cách mạng”
Quảng Trị nằm ở trung tâm của Việt Nam và là điểm "đầu cầu" trên Hành lang kinh tế Đông-Tây (EWEC), có 2 cửa khẩu quốc tế là Lao Bảo và La Lay, kết nối với hai tỉnh bạn Lào là Savannakhet và Salavan. Nhờ vị thế địa chính trị và kinh tế đặc biệt, Quảng Trị sở hữu giá trị, tiềm năng và lợi thế riêng biệt cho sự phát triển của ngành du lịch.
Quảng Trị đặc biệt nổi tiếng với hệ thống di tích lịch sử chiến tranh cách mạng đồ sộ và độc đáo, bao gồm 500 di tích và danh thắng đã được xếp hạng. Trong số đó, có 4 di tích quốc gia đặc biệt, gồm: Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải; Thành Cổ Quảng Trị và các địa điểm lưu niệm về sự kiện 81 ngày đêm năm 1972; địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh; đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh. Quảng Trị được biết đến như "Bảo tàng sinh động nhất về di tích lịch sử chiến tranh cách mạng".
Ngoài hệ thống di tích chiến tranh cách mạng, Quảng Trị còn sở hữu một “bộ sưu tập” đa dạng về di tích lịch sử văn hóa. Trong số đó, di tích Hệ thống khai thác nước cổ Chăm (giếng cổ Gio An) nổi bật với sự độc đáo, thu hút sự quan tâm của nhiều học giả và du khách quốc tế.
Về tài nguyên thiên nhiên, Quảng Trị có những đặc trưng riêng biệt, kết hợp tài nguyên rừng, biển và đảo đẹp mắt. Với 75km bờ biển, nhiều bãi biển nổi tiếng như Vĩnh Thái, Cửa Tùng, Cửa Việt, Triệu Lăng, Mỹ Thủy... và hòn đảo xanh Cồn Cỏ được mệnh danh là "đảo ngọc" của Việt Nam, nơi giữ gần 70% diện tích là rừng tự nhiên và nằm trong vùng sinh quyển bảo tồn biển.
>> Tỉnh duy nhất Việt Nam giáp cả Trung Quốc và Lào sẽ là trọng điểm du lịch đẳng cấp quốc tế
“Nhân chứng lịch sử” cho thời kỳ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc Việt Nam
Nhắc đến Quảng Trị thì không thể không nói đến sông Bến Hải, có nguồn gốc từ dãy núi Động Chân, thuộc dãy Trường Sơn, và chảy theo hướng Tây sang Đông trên vĩ tuyến 17, trước khi đổ ra biển tại Cửa Tùng. Đây là con sông dài khoảng 100km, có điểm rộng nhất là khoảng 200m, và tạo thành ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh thuộc tỉnh Quảng Trị.
Cầu Hiền Lương nằm ở km735 trên quốc lộ 1A, bắc qua sông Bến Hải, nối liền thôn Hiền Lương thuộc xã Vĩnh Thành, Vĩnh Linh, ở bờ Bắc và thôn Xuân Hòa thuộc xã Trung Hải, Gio Linh, ở bờ Nam. Cầu gồm 7 nhịp, dài 178m, được xây dựng ban đầu từ gỗ vào năm 1928 với mục đích chủ yếu là cho người đi bộ. Sau nhiều lần sửa chữa và nâng cấp, vào năm 1952, chính quyền Pháp đã thực hiện việc xây mới cầu Hiền Lương với trụ được làm bằng bê tông cốt thép, dầm cầu bằng thép và mặt lát bằng gỗ thông. Vào ngày 2/8/1967, cầu Hiền Lương đã bị phá hủy do bị tấn công bằng bom của Mỹ.
Nhằm phục vụ nhu cầu giao thông quân sự ở miền Nam, năm 1974, một cây cầu mới được xây dựng bằng bê tông cốt thép, mang ý nghĩa là biểu tượng của sự thống nhất non sông. Đến năm 1996, Bộ Giao thông Vận tải quyết định xây dựng một cây cầu mới, dài khoảng 230m và rộng 11,5m, nằm ở phía Tây của cây cầu cũ. Cây cầu mới này được tạo ra để cung cấp giải pháp giao thông hiện đại. Tại chân của cây cầu cũ, cầu đã được phục chế nguyên dạng, trở thành điểm tham quan cho du khách.
Tuy dòng sông Bến Hải có chiều ngang chỉ khoảng 200m nhưng cả dân tộc Việt Nam đã mất hơn 20 năm mới có thể đến được bờ kia. Cây cầu Hiền Lương không chỉ là công trình kiến trúc mà còn là biểu tượng của sự chia cắt vô hình, tách rời hàng triệu gia đình Việt Nam. Đó là bức tranh sinh động về lòng khao khát thống nhất đất nước, nơi hàng triệu người Việt Nam đã sẵn sàng đánh đổi xương máu để viết lên trang sử ngày độc lập.
Tháng 7/1954, khi Hiệp định Genève được ký kết, đất nước tạm thời bị chia cắt tại vĩ tuyến 17, nơi sông Bến Hải chảy qua. Cầu Hiền Lương bắc qua dòng sông trở thành "điểm nối" giữa hai nửa non sông.
Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải gồm 7 nhịp với chiều dài 178m. Theo Hiệp định, mỗi bên nhận 89m cầu. Hiệp định đầu tiên dự kiến rằng cuộc phân ly tạm thời này chỉ kéo dài 2 năm và sẽ kết thúc sau cuộc tổng tuyển cử thống nhất nhưng thực tế nó kéo dài đến 21 năm. Trong thời gian đó, sông Bến Hải và cầu Hiền Lương đã “chịu đựng” nhiều đau thương mất mát, trở thành biểu tượng của sự chia ly và mất mát.
Dòng sông Bến Hải đã trở thành một mảnh đất bi thương chịu nhiều cuộc tấn công từ bom đạn của quân địch. Mặc dù đồn bốt của địch được xây dựng bằng sắt thép, lưỡi lê và thậm chí xe tăng, nhưng không có sức mạnh nào có thể khuất phục lòng quả cảm, trí tuệ và niềm tin mạnh mẽ vào chân lý của nhân dân hai bờ Bến Hải.
Từ năm 1954 đến 1964, Hiền Lương bị chia cắt và được quy hoạch là khu vực phi quân sự. Tuy nhiên, đây lại là điểm trung tâm của cuộc chiến tranh tư tưởng, tâm lý và sinh mạng không kém phần khốc liệt. Những cuộc đấu tranh đặc biệt này bao gồm đấu cờ và đấu loa, nhưng kết quả cuối cùng vẫn thuộc về chính nghĩa.
Trên cầu Hiền Lương, có một vạch trắng kẻ ngang được sử dụng làm ranh giới. Để tạo ra hình ảnh chia cắt đất nước, chính quyền Sài Gòn quyết định sơn nửa phía Nam của cầu màu xanh, nhưng với tinh thần "thống nhất non sông", phần còn lại của cầu cũng được ta sơn màu xanh. Sau khi chúng sơn lại màu nâu, ta cũng sơn lại phía còn lại để giữ cho màu sắc đồng đều. Cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc, mỗi khi chúng sơn một phần để tạo ra hai màu đối lập, ngay lập tức ta lại sơn lại phần còn lại để giữ cho màu sắc đồng đều để cây cầu không bao giờ bị chia đôi. Cuối cùng, vào năm 1975, toàn bộ cầu được sơn chung một màu xanh hòa bình, thể hiện tinh thần thống nhất.
Một câu chuyện huyền thoại khác là cuộc đấu cờ giữa quân ta và kẻ địch. Theo quy định của Hiệp định, các trạm cảnh sát biên giới phải treo cờ và đối thủ thách thức chúng ta bằng cách dựng một cột cờ cao 15m, cao hơn của chúng ta. Tuy nhiên, theo yêu cầu của nhân dân giới tuyến, chúng ta quyết định xây dựng một cột cờ cao tới 18m. Cuộc đua cờ giữa hai bên diễn ra với sự cam go và quyết liệt.
Cho đến năm 1962, khi Ngô Đình Diệm quyết định xây một cột cờ bằng xi măng cốt thép cao 30m ở bờ Nam, quân và nhân dân ta đã đáp trả bằng việc xây một cột cờ mới cao tới 38,6m với lá cờ rộng 134m2 và nặng 15kg, đây là cột cờ cao nhất trong khu vực giới tuyến.
Từ đó, trong suốt 20 năm chiến tranh, mọi đạn pháo địch đều hướng về ngọn cờ ở bờ Bắc sông Bến Hải. Sự hiện diện của lá cờ Tổ quốc trên kỳ đài Hiền Lương trở thành biểu tượng mạnh mẽ về sức mạnh và chiến thắng của dân tộc, với hơn 300 trận đánh lớn nhỏ và không ít chiến sĩ đã hy sinh.
Ngoài cuộc đấu cờ, có một cuộc chiến khác diễn ra - cuộc chiến âm thanh và đấu loa giữa chúng ta và quân địch. Nhằm lột tả âm mưu xâm lược của chính quyền Mỹ ngụy và hỗ trợ tinh thần cho nhân dân miền Nam, chúng ta đã xây dựng một hệ thống âm thanh hiện đại với công suất tổng cộng 180.000W tại khu vực Bắc Hiền Lương và 7.000W tại cầu Hiền Lương. Với những chương trình phát thanh đa dạng và phong phú, hệ thống loa này thực sự vượt trội so với dàn loa bờ Nam của chính quyền Mỹ ngụy. Hệ thống loa đã đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì niềm tin của nhân dân vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần vào sự thống nhất đất nước.
Ngày nay, ven bờ sông Bến Hải yên bình, không xa cây cầu Hiền Lương lịch sử, "Khu di tích đôi bờ Hiền Lương" đã được xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
Cầu Hiền Lương, cột cờ Hiền Lương, nhà Liên hợp, đồn Công an Hiền Lương, đồn, trạm Cảnh sát bờ Nam, cụm tượng đài “Khát vọng thống nhất”... hiện vẫn được gìn giữ như một bằng chứng sống về lịch sử, nhắc nhở cho đời sau về sự quý giá của hòa bình. Đây là nơi mà du khách cả trong và ngoài nước có thể hoài niệm về một thời kỳ đau thương nhưng cũng oai hùng và kiêu hãnh.
Ngoài Đôi bờ Hiền Lương, du khách khi đến Quảng Trị cũng có thể đến những địa điểm lịch sử nổi tiếng khác như: Thành cổ Quảng Trị, Khe Sanh, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, địa đạo Vịnh Mốc....Ngoài ra, những địa điểm khác như đảo Cồn Cỏ, bãi biển Cửa Tùng, cửa khẩu Lao Bảo,... cũng có rất nhiều hoạt động để du khách trải nghiệm.
>> ‘Chữa lành’ tâm hồn tại ngôi làng nguyên thủy ‘2 KHÔNG’ ẩn mình trên triền đá Tây Bắc