Vĩ mô

Giám đốc Maybank: Tín dụng Việt Nam vẫn còn dư địa lớn cho tăng trưởng doanh nghiệp

Khúc Văn 05/11/2025 12:25

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam khẳng định trong ngắn hạn, động lực cho vay của các ngân hàng sẽ đến từ mảng hạ tầng và năng lượng.

Bình luận về vai trò của Ngân hàng trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số tại Diễn đàn Đầu tư Việt Nam 2026, ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam khẳng định vai trò của ngân hàng đối với nền kinh tế luôn luôn là kênh dẫn vốn quan trọng nhất.

Ảnh màn hình 2025-11-05 lúc 04.07.33
Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities.

Đánh giá sâu hơn về con số tỷ lệ tín dụng của Việt Nam/GDP khoảng 134%, ông Thành phân tích trong giai đoạn từ năm 2013 đến trước năm 2022, tín dụng tăng mạnh chủ yếu đến từ cho vay bán lẻ, cho vay doanh nghiệp trên GDP chiếm tỷ trọng không quá lớn. Nếu so sánh con số này với các thị trường khác, đây vẫn là một tỷ lệ rất an toàn và còn dư địa để phát triển thêm.

“Sau năm 2022, có những biến cố về vĩ mô khiến nhu cầu vay của cá nhân chậm lại. Từ năm 2024 đến nay, cho vay doanh nghiệp đang trở thành động lực chính của tăng trưởng tín dụng, và tôi cho rằng đó là hướng đi đúng. Trong cho vay doanh nghiệp nói chung, chúng ta có thể nhìn vào quy mô đầu tư để biết ngân hàng cho vay như thế nào”, ông Thành nói.

Theo vị chuyên gia, trong giai đoạn 2020 - 2024, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 682 tỷ USD. Nếu phân theo ngành nghề, lĩnh vực lớn nhất là sản xuất - đầu tư vào sản xuất chiếm tỷ trọng cao nhất.

“Nếu chia theo khu vực đầu tư có Chính phủ, khu vực tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài (FDI). Trong mảng đầu tư sản xuất, khu vực FDI chiếm phần lớn và thường vay vốn từ ngân hàng quốc tế hoặc ngân hàng của nước họ”, ông Thành khẳng định.

Phần còn lại, theo ông Thành vào khoảng 44%, đến từ các ngân hàng trong nước. Trong nhóm này, ba ngân hàng thương mại Nhà nước gồm VietinBank, Vietcombank và BIDV chiếm tới 60% nên không gian còn lại cho các ngân hàng tư nhân là rất nhỏ. Các ngân hàng tư nhân buộc phải mở rộng sang mảng cho vay bán lẻ. Họ đã và đang làm điều này rất mạnh mẽ.

“Ở mảng cho vay doanh nghiệp, phần nổi bật là bất động sản – một nhu cầu rất lớn ở Việt Nam, từ các chủ doanh nghiệp có tích lũy tài sản đến người dân bình thường đều có nhu cầu đầu tư. Do đó, ngân hàng tất yếu phải tham gia tài trợ cho lĩnh vực này”, ông Thành nói.

Từ những lập luận trên, ông Thành khẳng định: “Có thể thấy dư địa cho vay doanh nghiệp vẫn còn rất lớn, với tỷ lệ cho vay doanh nghiệp trên GDP dưới 80%, ở mức lành mạnh”.

Hướng đi tiếp theo, ông Thành cho rằng đó là mở rộng cho vay sản xuất. Khi chúng ta bước vào giai đoạn tăng trưởng mạnh, hướng tới mục tiêu trên 10% GDP và lấy doanh nghiệp tư nhân làm chủ lực. Cho vay sản xuất sẽ là nơi mở rộng quy mô, tuy nhiên, đây là câu chuyện dài hạn – cần 5 đến 10 năm để chuyển dịch dần.

“Trong ngắn hạn, động lực cho vay sẽ đến từ mảng hạ tầng và năng lượng. Những năm gần đây, quy mô đầu tư vào các lĩnh vực này còn nhỏ, nhưng trong 5 năm tới, theo kế hoạch tăng trưởng GDP 10% và tính toán của Bộ Tài chính, tổng vốn đầu tư cần khoảng 1.400 tỷ USD, tức bình quân mỗi năm khoảng 280 tỷ USD. Trong đó, nguồn vốn FDI chỉ chiếm 24–30 tỷ USD, còn lại hơn 250 tỷ USD phải đến từ khu vực trong nước – bao gồm Chính phủ và doanh nghiệp tư nhân”, ông Thành nói và nhấn mạnh: “Chính phủ hiện đang khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng và năng lượng. Tôi cho rằng “miếng bánh” này đang mở rộng và mức độ tham gia của doanh nghiệp tư nhân cũng ngày càng tăng”.

Trong hai năm gần đây, rất nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tham gia xây dựng đường sá, công trình hạ tầng, và gần đây bắt đầu mở rộng sang mảng năng lượng. Khi doanh nghiệp tư nhân tham gia, ngân hàng cũng sẵn sàng tài trợ.

Ngay cả những ngân hàng thận trọng nhất như Vietcombank cũng sẵn sàng tham gia cho vay hạ tầng. Quan trọng là họ lựa chọn được doanh nghiệp tư nhân đủ năng lực để triển khai dự án.

“Cho vay hạ tầng có thời hạn rất dài – đặc biệt với dự án năng lượng. Tuy nhiên, với các dự án hạ tầng ngắn hạn như xây dựng tuyến đường, nếu thời gian thi công chỉ 1–3 năm thì ngân hàng hoàn toàn có thể cân đối nguồn vốn để tài trợ. Tôi muốn nhấn mạnh ngân hàng sẽ tiếp tục là kênh dẫn vốn cực kỳ quan trọng cho nền kinh tế, và trong giai đoạn tới, vai trò này còn lớn hơn nữa”, ông Thành khẳng định.

Ở góc độ chuyển đổi số, vị chuyên gia cho rằng ngân hàng là ngành có dữ liệu cấu trúc tốt, có nhân lực và gần với cơ quan quản lý nên có khả năng đi đầu trong quá trình chuyển đổi số. Hiện nay, ngân hàng là ngành đang áp dụng chuyển đổi số nhiều nhất, cả trong vận hành nội bộ lẫn cung cấp dịch vụ cho khách hàng.

“Hiện Chính phủ đặt mục tiêu hai triệu doanh nghiệp vào năm 2030. Vậy nó sẽ đến từ đâu? Nó phải đến từ sự lớn lên của các hộ kinh doanh và bản thân các doanh nghiệp SME hiện tại cũng sẽ phải phát triển dần lên”, vị chuyên gia đặt vấn đề.

Theo quan sát của vị chuyên gia gần đây có những ngân hàng như ACB, MB rất tích cực trong việc hỗ trợ các hộ kinh doanh chuẩn chỉ về mặt số liệu. Chính những dữ liệu này sẽ là nguồn thông tin đầu vào để các ngân hàng sử dụng hệ thống big data, trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm xây dựng các mô hình định giá tín nhiệm. Qua đó, mở ra không gian đầu tư sẽ được mở rộng dần lên. Tôi cho rằng đây là vai trò mà các ngân hàng đang thể hiện rất tốt.

Về mức độ phân hóa, vị chuyên gia cho rằng có thể thấy doanh nghiệp tư nhân đang là lực lượng tiên phong, thì đi cùng với họ chắc chắn sẽ là các ngân hàng tư nhân.

“Các ngân hàng tư nhân sẽ có tốc độ tăng trưởng rất tốt trong giai đoạn 5 năm tới. Tôi gọi đây là giai đoạn “công tư kiến quốc”, trong đó khối ngân hàng tư nhân sẽ là nhóm có bước phát triển vượt trội. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của các ngân hàng thương mại nhà nước.

Thực tế, các ngân hàng nhà nước vẫn sẽ là trụ cột quan trọng của hệ thống. Khi Ngân hàng Nhà nước muốn hỗ trợ thanh khoản cho thị trường, họ vẫn chủ yếu thực hiện thông qua các ngân hàng thương mại nhà nước lớn, bằng cách bơm vốn ra với mức lãi suất hợp lý”, ông Thành nói.

Một vai trò cực kỳ quan trọng khác của khối ngân hàng thương mại nhà nước mà ông Thành nhấn mạnh là trong bối cảnh nhu cầu vốn cho nền kinh tế lên tới 1.400 tỷ USD trong 5 năm tới, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì chắc chắn không đủ. Chúng ta cần huy động được nguồn vốn từ nước ngoài.

Để làm được điều đó, ông Thành cho rằng Việt Nam cần tiếp tục các nỗ lực như nâng hạng thị trường chứng khoán – đây là một biện pháp quan trọng, cùng với việc phát triển thị trường trái phiếu cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, muốn thị trường trái phiếu đủ rộng, đủ sâu, có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài với chi phí vốn hợp lý, thì trước hết chúng ta phải nâng hạng tín nhiệm quốc gia.

“Muốn nâng hạng tín nhiệm quốc gia, sức khỏe của hệ thống ngân hàng phải được cải thiện, thể hiện rõ qua tỷ lệ an toàn vốn (CAR). Một trong những đánh giá của các tổ chức quốc tế cho thấy tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng Việt Nam – đặc biệt là khối ngân hàng thương mại nhà nước – hiện vẫn còn thấp”, ông Thành phân tích.

Vì vậy, chuyên gia Thành khẳng định vai trò quan trọng hiện nay là phải tăng cường sức mạnh tài chính cho nhóm ngân hàng nhà nước, đặc biệt là cho phép họ chủ động hơn trong việc quản lý lợi nhuận.

“Năm nay, chúng tôi thấy VietinBank tăng trưởng lợi nhuận rất tốt, và chính phần lợi nhuận giữ lại đó giúp nâng cao tỷ lệ an toàn vốn, qua đó hỗ trợ khả năng tăng trưởng tín dụng. Tôi hy vọng các ngân hàng thương mại nhà nước khác như Vietcombank và BIDV cũng sẽ có được tâm lý và khả năng tăng trưởng về mặt lợi nhuận và hỗ trợ tín dụng như thế cho năm sau”, ông Thành nói.

Theo Kiến thức Đầu tư
https://dautu.kinhtechungkhoan.vn/giam-doc-maybank-tin-dung-viet-nam-van-con-du-dia-lon-cho-tang-truong-doanh-nghiep-1412882.html
Đừng bỏ lỡ
    Đặc sắc
    Nổi bật Người quan sát
    Đọc tiếp
    Giám đốc Maybank: Tín dụng Việt Nam vẫn còn dư địa lớn cho tăng trưởng doanh nghiệp
    POWERED BY ONECMS & INTECH