Ngành học dự kiến sinh viên được hỗ trợ 3,6 triệu đồng/tháng, tương đương với ngành Sư phạm
Dự kiến sinh viên, học viên cao học ở các ngành này, thuộc cả các cơ sở công lập và ngoài công lập, sẽ được cấp sinh hoạt phí 3,63 triệu đồng mỗi tháng, tối đa 10 tháng mỗi năm. Mức hỗ trợ này tương đương với mức đang áp dụng cho sinh viên ngành Sư phạm hiện nay.
Theo báo Nhân Dân đưa tin, ngày 20/6, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giới thiệu dự thảo Nghị định về chính sách học bổng cho người học thuộc các lĩnh vực khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược. Ông Ngô Văn Thịnh – Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính – cho biết, dự kiến sinh viên, học viên cao học ở các ngành này, thuộc cả các cơ sở công lập và ngoài công lập, sẽ được cấp sinh hoạt phí 3,63 triệu đồng mỗi tháng, tối đa 10 tháng mỗi năm. Mức hỗ trợ này tương đương với mức đang áp dụng cho sinh viên ngành Sư phạm hiện nay.
Ngoài ra, học viên cao học và nghiên cứu sinh có kết quả học tập loại xuất sắc sẽ được cấp học bổng tương đương 100% học phí.
Đối với nhóm học lực giỏi và khá, mức học bổng lần lượt là 70% và 50% học phí. Các mức hỗ trợ cụ thể sẽ căn cứ theo trần học phí quy định tại Nghị định của Chính phủ.
Mỗi năm học, cơ sở giáo dục sẽ tổ chức xét cấp học bổng và hỗ trợ chi phí sinh hoạt thành 2 đợt là ngày 31/10 và 31/3 hàng năm.

Trong lĩnh vực khoa học cơ bản, sinh viên các ngành như Toán học, Vật lý học, Hóa học, Sinh học, Khoa học máy tính (được xem là một ngành khoa học cơ bản trong lĩnh vực công nghệ), Khoa học môi trường dự kiến sẽ được hưởng chính sách hỗ trợ.
Ở lĩnh vực kỹ thuật then chốt, các ngành được xác định bao gồm: Công nghệ thông tin, Khoa học dữ liệu, Trí tuệ nhân tạo, Điện - Điện tử, Tự động hóa, Cơ khí chính xác, Kỹ thuật hàng không, Vật liệu mới, Kỹ thuật cơ khí, Kỹ thuật điện - điện tử, Kỹ thuật công nghiệp, Kỹ thuật xây dựng, Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông, Kỹ thuật công nghệ thông tin, Kỹ thuật điện tử - viễn thông, Kỹ thuật cơ điện tử, Kỹ thuật hóa học, Kỹ thuật môi trường, Kỹ thuật phần mềm, Kỹ thuật cơ khí động lực, Kỹ thuật ô tô, Kỹ thuật thực phẩm, Kỹ thuật năng lượng, Kỹ thuật tự động hóa.
Trong khi đó, lĩnh vực công nghệ chiến lược bao gồm các ngành như: Công nghệ sinh học, Công nghệ nano, Công nghệ vũ trụ, Công nghệ môi trường, Công nghệ năng lượng tái tạo, Công nghệ thông tin, Kỹ thuật phần mềm, Công nghệ kỹ thuật điện - điện tử, Công nghệ kỹ thuật tự động hóa, Công nghệ vật liệu, Công nghệ thông tin – An toàn thông tin, Công nghệ thực phẩm, Công nghệ điều khiển và tự động hóa, Công nghệ truyền thông đa phương tiện, Công nghệ y sinh, Công nghệ chế tạo máy, Công nghệ thông tin – Khoa học dữ liệu.
Hiện nay, tại Việt Nam có nhiều trường đại học đào tạo các lĩnh vực khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược. Trong đó, tiêu biểu có thể kể đến Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Bách khoa – Đại học Đà Nẵng…

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, các lĩnh vực khoa học cơ bản, kỹ thuật mũi nhọn và công nghệ chiến lược đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực sản xuất cũng như khả năng cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong những lĩnh vực này vẫn đang thiếu cả về số lượng và chất lượng, chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển nhanh chóng. Trên thực tế, nhiều ngành khoa học – công nghệ tiên tiến đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt đội ngũ nhân lực trình độ cao, đặc biệt là các kỹ sư, nhà khoa học trẻ được đào tạo bài bản và có kỹ năng thực tiễn. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới và phát triển các lĩnh vực công nghệ trọng điểm của quốc gia.
Một trong những nguyên nhân chính là do việc theo học các ngành khoa học cơ bản và công nghệ chiến lược đòi hỏi người học phải có nền tảng kiến thức tốt, thời gian đào tạo dài, trong khi cơ hội nghề nghiệp ban đầu chưa thực sự rõ ràng – điều này gây khó khăn trong việc thu hút sinh viên nếu không có chính sách hỗ trợ phù hợp. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng các chính sách hỗ trợ hiệu quả dành cho học sinh – sinh viên có hoàn cảnh khó khăn nhưng có năng lực học tập xuất sắc.
Bên cạnh đó, việc cải tiến chương trình đào tạo sau đại học theo chuẩn công nghệ quốc tế cũng cần được đặc biệt chú trọng. Cần xây dựng các chương trình thạc sĩ và tiến sĩ tích hợp công nghệ lõi, cập nhật theo các chuẩn quốc tế; đồng thời cân bằng giữa lý thuyết và thực hành thực tế. Song song, cần tăng cường liên kết đào tạo với doanh nghiệp và viện nghiên cứu trong và ngoài nước, nhằm tạo cơ hội cho người học được tiếp cận dự án thực tế ngay trong quá trình học tập.