Người Việt từng mất 22 năm để xây dựng 'thành phố trong lòng đất' dài 250km, sẽ trở thành di sản thế giới thứ 10 được UNESCO công nhận
Công trình này được đánh giá là một huyền thoại của thế kỷ XX, trở thành địa danh lịch sử nổi tiếng trên toàn thế giới.
Cách trung tâm TP. HCM khoảng 70km về hướng Tây Bắc, Địa đạo Củ Chi được xem là biểu tượng tiêu biểu cho tinh thần sáng tạo và ý chí kiên cường của quân và dân Việt Nam trong suốt 30 năm kháng chiến giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Công trình này được đánh giá là một huyền thoại của thế kỷ XX, trở thành địa danh lịch sử nổi tiếng trên toàn thế giới.
Những đoạn địa đạo đầu tiên được hình thành tại 2 xã Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An thuộc huyện Củ Chi trước đây. Ban đầu, hệ thống hầm ngầm có quy mô nhỏ, cấu trúc đơn giản, chủ yếu phục vụ việc cất giấu tài liệu, vũ khí và làm nơi trú ẩn cho cán bộ hoạt động trong vùng địch hậu. Theo thời gian, cùng với yêu cầu ngày càng cao của chiến trường, địa đạo không ngừng được mở rộng, lan tỏa sang nhiều xã khác, từng bước hình thành một mạng lưới hầm ngầm liên hoàn.

Trong giai đoạn 1961-1965, phong trào chiến tranh du kích của quân và dân Củ Chi phát triển mạnh mẽ, gây nhiều tổn thất cho đối phương, góp phần làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. 6 xã phía Bắc huyện Củ Chi cũ đã hoàn thiện tuyến địa đạo “xương sống”, từ đó phát triển thêm các nhánh phụ, kết nối với nhau thành một hệ thống chằng chịt dưới lòng đất.
Để tạo nên công trình kiên cố như ngày nay, hàng vạn người dân và lực lượng vũ trang huyện Củ Chi cũ đã bền bỉ đào đắp suốt 22 năm (từ 1946 đến 1968) chủ yếu bằng các công cụ thô sơ như cuốc, xẻng. Địa đạo giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong nhiều chiến dịch lớn, tiêu biểu là Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 và đại thắng mùa Xuân 1975.
Theo tư liệu của Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi, toàn bộ hệ thống có tổng chiều dài khoảng 250km, đan xen như mạng nhện dưới lòng đất và được cấu trúc thành 3 tầng. Tầng một nằm cách mặt đất khoảng 3m, phục vụ lực lượng chiến đấu; tầng hai ở độ sâu khoảng 6m, là nơi nghỉ ngơi của thương binh, người già và trẻ em; tầng ba sâu từ 8 đến 10m, được xem là khu vực trú ẩn an toàn nhất trong điều kiện bom đạn ác liệt.

Các đường hầm được thiết kế ngoằn ngoèo, nối liền từ trục chính “xương sống” tỏa ra nhiều nhánh lớn nhỏ. Một số nhánh được mở thông ra sông Sài Gòn, tạo điều kiện cho lực lượng du kích rút lui khi cần thiết và vượt sông sang căn cứ Bến Cát, tỉnh Bình Dương cũ.
Dọc theo hệ thống địa đạo là các lỗ thông hơi được ngụy trang khéo léo như tổ mối, bảo đảm lưu thông không khí nhưng vẫn giữ được yếu tố bí mật. Trên mặt đất và tại những vị trí hiểm yếu, các hầm chông, hố đinh, cạm bẫy, mìn trái, mìn chống tăng, mâm phóng lựu đạn chống trực thăng cùng các ổ chiến đấu, ụ bắn tỉa được bố trí dày đặc nhằm ngăn chặn sự tiếp cận của đối phương. Các cửa lên xuống hầm thường đặt trong khu vực “tử địa”, được bảo vệ bằng nhiều lớp phòng thủ liên hoàn.

Bên trong địa đạo là một hệ thống căn cứ kháng chiến hoàn chỉnh với đầy đủ chức năng sinh hoạt và chiến đấu. Nhiều hầm có diện tích đủ để mắc võng nghỉ ngơi; các khu vực dự trữ vũ khí, lương thực, thực phẩm, giếng nước, bếp Hoàng Cầm, nơi chế tạo vũ khí, phòng họp bí mật, hầm làm việc của lãnh đạo, hầm giải phẫu, khu nuôi dưỡng thương binh và hầm chữ A dành cho phụ nữ, người già, trẻ em được bố trí hợp lý. Một số hầm lớn còn được ngụy trang trên mặt đất, phục vụ hội họp và sinh hoạt văn nghệ trong điều kiện chiến tranh.
Trong thời kỳ kháng chiến, Địa đạo Củ Chi là nơi sinh sống và làm việc của lãnh đạo Khu ủy và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng tại Sài Gòn - Gia Định. Nhiều cán bộ từng hoạt động tại đây sau ngày giải phóng đã đảm nhiệm các cương vị lãnh đạo cao cấp của Trung ương như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, Mai Chí Thọ...

Đồng thời, địa đạo cũng là không gian sinh sống, bám trụ và chiến đấu của lực lượng vũ trang cùng nhân dân địa phương, góp phần giành nhiều thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Với những giá trị lịch sử to lớn, khu căn cứ Địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia, đồng thời được xếp hạng là Khu di tích Lịch sử Quốc gia đặc biệt từ năm 2015.
Đến năm 2022, TP. HCM hoàn thành giai đoạn 1 trong việc lập hồ sơ trình UNESCO xem xét công nhận Địa đạo Củ Chi là Di sản Thế giới. Theo kế hoạch, đến năm 2027, UBND TP. HCM sẽ hoàn thiện hồ sơ và phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu Thủ tướng Chính phủ đề nghị UNESCO đưa Di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi vào danh mục Di sản Thế giới.

Hiện nay, Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi là điểm đến thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước, mỗi năm đón hơn 1 triệu lượt khách tham quan, tìm hiểu lịch sử và viếng Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược. Đầu năm 2025, nền tảng du lịch trực tuyến TripZilla đã đưa Địa đạo Củ Chi vào danh sách 10 “Điểm du lịch gợi nhớ đau thương trên thế giới”, là đại diện duy nhất của Việt Nam; trước đó, vào tháng 7/2023, kênh truyền thông CNN cũng xếp Địa đạo Củ Chi vào danh sách những đường hầm kỳ thú nhất hành tinh.
Hiện hệ thống địa đạo được bảo tồn và khai thác tại 2 điểm chính là địa đạo Bến Dược (thuộc xã An Nhơn Tây) và địa đạo Bến Đình (thuộc xã Nhuận Đức, TP. HCM). Trong đó, địa đạo Bến Dược được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia theo Quyết định số 54/VHQĐ ngày 29/04/1979; địa đạo Bến Đình được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử Quốc gia theo Quyết định số 101/2004/QĐ-BVHTT ngày 15/12/2004.
