NSND xuất chúng của nghệ thuật Việt Nam từng là Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, là một trong những nhà điêu khắc hàng đầu về tượng danh nhân
Ông là một nhà điêu khắc tài hoa, một họa sĩ, đạo diễn múa rối và người quản lý văn hóa xuất sắc.
NSND Vương Duy Biên là một trong những tên tuổi lớn của nghệ thuật Việt Nam đương đại, nổi bật không chỉ với vai trò nhà điêu khắc tài hoa mà còn là một họa sĩ, đạo diễn múa rối và người quản lý văn hóa xuất sắc. Từ những bức tượng đài danh nhân đi vào lòng người đến những sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật múa rối và hội họa, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa dân tộc.
Được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân năm 2015, từng đảm nhiệm vị trí Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện là Phó Chủ tịch chuyên trách Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (khóa X, 2020-2025), hành trình của ông là minh chứng cho một tài năng cháy bỏng sáng tạo và tâm huyết cống hiến.
Từ tuổi thơ đam mê hình khối đến nhà điêu khắc tượng đài hàng đầu
Vương Duy Biên sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, với cha là nhà phê bình mỹ thuật Vương Như Chiêm – nguyên Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Ngay từ nhỏ, ông đã bộc lộ năng khiếu bẩm sinh với những hình khối. Những buổi dạo chơi trong công viên, cậu bé Biên say mê ngắm nhìn các nghệ nhân nặn tò he dưới tán cây. Về nhà, ông mày mò tìm đất sét để tự tay nhào nặn, không phải những nhân vật truyền thống như Quan Công hay Trương Phi mà là hình tượng các chú bộ đội và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính những ngày tháng ấy đã gieo mầm đam mê nghệ thuật trong ông.

Lớn lên, Vương Duy Biên thi đỗ vào Trường Mỹ thuật Việt Nam (khoa Điêu khắc) năm 1972 và thuộc nhóm sinh viên hiếm hoi đạt hạng đầu. Trong thời gian học, ông đã sớm thể hiện tài năng qua các bài thi xuất sắc, đặc biệt là những phác thảo tượng Đức Thánh Trần và Bác Hồ. Tốt nghiệp, ông về công tác tại Nhà hát Múa Rối Trung ương, bắt đầu từ việc tạo hình con rối. Nhưng khát vọng sáng tạo không dừng lại ở đó. Năm 1997, khi mới 30 tuổi, ông tham gia cuộc thi mẫu tượng Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Dù còn trẻ và đối mặt với nhiều nhà điêu khắc tên tuổi, ông vẫn mạnh dạn gửi mẫu tượng mà ông tự nhận là “tạm được”. Kết quả bất ngờ: ông giành giải Nhất, và tác phẩm được chọn dựng tại Quảng trường 3-2, TP. Nam Định, cao 16,72m.
Tượng đài Trần Quốc Tuấn không chỉ là một thành công lớn mà còn trở thành biểu tượng được nhân bản rộng rãi trong đời sống. Từ các phiên bản lớn nhỏ đặt tại nhiều thành phố đến những mẫu tượng thạch cao, đồng hay đá được sao chép tràn lan trong các cửa hàng lưu niệm, tác phẩm của ông đã thực sự đi vào lòng người. Dù bản quyền bị xâm phạm, ông từng chia sẻ với nụ cười: “Chưa nói luật bản quyền, Bác của tôi vào với nhà dân, công sở là hạnh phúc lắm rồi!”. Sự khiêm tốn và tâm huyết ấy là phẩm chất nổi bật của ông.

Tiếp nối thành công, Vương Duy Biên trở thành một trong những nhà điêu khắc hàng đầu về tượng danh nhân. Các tác phẩm như tượng đài Trường Chinh và đặc biệt là tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh tại đảo Ngọc, TP. Phú Quốc (khánh thành ngày 19/5/2024) đều mang chiều sâu hồn cốt nhân vật.
Tượng Bác Hồ cao 18m, với tổng chiều cao khối tượng đài 20,7m, được thiết kế với bàn tay phải đặt lên ngực trái, gợi nhớ câu nói bất hủ: “Miền Nam luôn trong trái tim tôi”. Nhìn ra biển, tượng không chỉ khẳng định chủ quyền đất nước mà còn thể hiện ý nguyện của Bác: Tổ quốc trường tồn trong tim mỗi người dân Việt. Từng chi tiết như nếp quần, tà áo được ông chăm chút khéo léo, tạo cảm giác như mây gió quấn quanh Người. Dù tượng đài sừng sững giữa nắng gió, đôi mắt Bác vẫn toát lên sự gần gũi, làm trào dâng cảm xúc cho người chiêm ngưỡng.
30 năm gắn bó tại Nhà hát Múa Rối Trung ương
Ngoài điêu khắc, Vương Duy Biên còn ghi dấu ấn trong nghệ thuật múa rối với hơn 30 năm gắn bó tại Nhà hát Múa Rối Trung ương, từ họa sĩ tạo hình đến đạo diễn và Giám đốc nhà hát. Ông không ngừng trăn trở để đổi mới nghệ thuật rối truyền thống. Ví dụ, với chú Tễu trong rối nước, ông nhận thấy khán giả hiện đại ngồi xa sân khấu hơn so với ngày xưa ở ao làng, nên cần làm chú Tễu cao to hơn. Điều này đòi hỏi kỹ thuật phức tạp liên quan đến sào điều khiển và không gian biểu diễn. Sau nhiều đêm mất ăn mất ngủ, ông đã thành công trong việc tái tạo chú Tễu phù hợp với hoàn cảnh mới.

Tác phẩm “Hồn quê” – do ông đạo diễn vào giữa thập kỷ 2000 – là một bước đột phá trong nghệ thuật múa rối. Vở diễn kết hợp rối nước và rối cạn với nghệ thuật sắp đặt, mang đến không gian đồng quê sinh động với sông, ao, cá. Âm nhạc không còn dựa vào chèo cổ mà hòa quyện với nét Folklore bay bổng và nhịp điệu hiện đại, tạo cảm giác mới lạ.
Các tiết mục như “Úp nơm cá”, “Múa quạt”, “Bắt vịt”, “Cày bừa” khiến khán giả như được tham gia cùng con rối. “Hồn quê” không chỉ thành công trong nước mà còn được trình diễn tại các sự kiện âm nhạc quốc tế (World Music), khẳng định tài năng đạo diễn của ông. Ngoài ra, ông còn thiết kế và đạo diễn nhiều vở nổi tiếng như “Tò he”, “Tráng sĩ”, “Không gian trắng”, “A La Đanh và cây đèn thần”, giành nhiều Huy chương Vàng, Bạc tại các hội diễn.
Sáng tạo của Vương Duy Biên còn lan tỏa qua nghệ thuật sắp đặt tại “Không gian nghệ thuật Vương Duy Biên” ở Bốt Tép, Sóc Sơn, Hà Nội. Khu vườn này lưu giữ một lô cốt trăm năm – chứng tích thời Pháp xây dựng để án ngữ đường từ Tây Bắc về Hà Nội. Bên cạnh lô cốt, ông sắp đặt những trái bom thời chiến thành các tác phẩm giàu ý nghĩa: “Dễ hơn cưa bom” với hình hai em bé cưa trái khế khổng lồ, đôi chim bồ câu đậu trên bom tượng trưng cho hòa bình, hay chồi non mọc từ thân bom như khát vọng sống bất diệt.

Tác phẩm “Tưởng niệm” tôn vinh sự hy sinh của các chiến sĩ, gợi nhắc ký ức hào hùng của quân dân Thủ đô. Những bức tượng khác như “Chiếc ghế đang chìm”, “Chum kinh nghiệm”, “Không biết mình đi đâu nhỉ” mang triết lý sâu sắc về đời sống, khiến bất kỳ ai ghé thăm đều trầm ngâm suy ngẫm.
Hồn quê trong hội họa và di sản nghệ thuật
Không chỉ dừng lại ở điêu khắc và múa rối, Vương Duy Biên còn là một họa sĩ tài năng với các tác phẩm tranh lụa và sơn mài. Nếu tượng của ông đậm chất triết lý nhân sinh, thì tranh lại nghiêng về màu sắc đồng quê, thấm đẫm hình ảnh người phụ nữ tần tảo và chiếc nón làng quê.
Hàng chục bức sơn mài khắc họa chiếc nón trong ruộng đồng, gợi lên những câu ca dao như: “Nón này che nắng che mưa/ Nón này để đội cho vừa đôi ta” hay “Trời mưa thì mặc trời mưa/ Chồng tôi đi bừa đã có nón che”. Màu trắng dịu dàng của nón dát vỏ trứng hòa cùng lời ca: “Tình đôi ta từ bấy đến giờ/ Vẫn tròn như chiếc nón bài thơ anh tặng em” (Lê Việt Hòa), làm trầm lắng hồn thơ trong lòng người xem.

Các tác phẩm tranh và tượng của ông đã được triển lãm tại nhiều nước, để lại ấn tượng với sự hòa quyện giữa cảm xúc phương Tây và tinh thần Việt Nam. Điêu khắc của ông kêu gọi đối thoại qua khối hình, còn tranh cất lên giai điệu êm đềm của đồng quê. Nhiều nhà sưu tầm đã tìm đến các tác phẩm của ông, minh chứng cho sức hút nghệ thuật vượt biên giới.
Di sản của Vương Duy Biên không chỉ nằm ở các tác phẩm mà còn ở tâm huyết cống hiến cho nghệ thuật và công chúng. Từ tượng đài Trần Quốc Tuấn lan tỏa khắp nơi đến tượng Bác Hồ tại Phú Quốc khẳng định chủ quyền biển đảo, từ “Hồn quê” đổi mới múa rối đến khu vườn nghệ thuật ở Bốt Tép, ông đã sống trọn vẹn với đam mê sáng tạo.
Danh hiệu NSND năm 2015 là sự ghi nhận xứng đáng, nhưng hạnh phúc lớn nhất của ông, như chính ông từng nói, là khi “Bác của tôi vào với nhà dân, công sở”. Với ông, nghệ thuật không chỉ là nghề mà còn là cách để gửi gắm tình yêu quê hương, đất nước và khát vọng hòa bình.
NSND Vương Duy Biên là hiện thân của một nghệ sĩ đa tài, luôn cháy bỏng khát khao sáng tạo và cống hiến. Từ cậu bé mê nặn đất sét ở công viên đến nhà điêu khắc tạo nên những tượng đài bất hủ, từ người đổi mới múa rối đến họa sĩ vẽ hồn quê qua chiếc nón, ông đã để lại một gia tài nghệ thuật phong phú. Cuộc đời ông là hành trình của đam mê, tài năng và lòng yêu nước, không ngừng tìm tòi để đưa nghệ thuật đến gần hơn với đời sống. Hơn cả những danh hiệu, di sản của Vương Duy Biên sẽ mãi là nguồn cảm hứng cho các thế hệ nghệ sĩ và công chúng Việt Nam hôm nay và mai sau.
*Tổng hợp: Báo điện tử Sức khỏe và Đời sống, Báo Công An Nhân Dân