TỔNG THUẬT: Tọa đàm của Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp về phát triển kinh tế tư nhân
Sáng 31/5 tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì cuộc Tọa đàm với doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.

Cùng dự Tọa đàm tại Trụ sở Chính phủ có các Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Hồ Đức Phớc, lãnh đạo các ban, bộ, ngành ở Trung ương.
Tọa đàm diễn ra theo hình thức trực tiếp và kết nối trực tuyến đến trụ sở UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, với sự tham dự của hơn 1.000 đại biểu đại diện cho các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hợp tác xã... để lắng nghe đóng góp, kiến nghị về những chính sách, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới, qua đó khẳng định vị thế, vai trò của kinh tế tư nhân, góp phần quan trọng vào sự phát triển của kinh tế-xã hội nhanh và bền vững.
Khai trương Cổng Pháp luật quốc gia

Ngay trước Tọa đàm, Thủ tướng Chính phủ đã thực hiện nghi thức bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp bước vào kỷ nguyên mới.
Phát biểu nhân sự kiện này, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết sau Hội nghị triển khai Nghị quyết 66, 68, Thủ tướng đã có trao đổi, giải đáp một số câu hỏi của một số đại biểu, nhưng nhiều đại biểu vẫn muốn có thêm ý kiến. Do đó, Thủ tướng chỉ đạo tổ chức cuộc tọa đàm với các doanh nghiệp về triển khai Nghị quyết 68.

Thủ tướng cho rằng nếu trước đây chúng ta có nghệ thuật chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích thì mới chiến thắng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, thì ngày nay, khi đất nước hòa bình, chúng ta phải phát triển đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Do đó, cần phát động phong trào "toàn dân làm giàu" để huy động mọi nguồn lực phát triển đất nước.
Thủ tướng đánh giá cao việc xây dựng và tổ chức khai trương Cổng pháp luật quốc gia ngay trước cuộc tọa đàm, với tinh thần "mỗi việc làm là một niềm vui cho nhân dân, cho doanh nghiệp, cho xã hội".
Thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị

Mở đầu Tọa đàm, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn đã công bố Quyết định số 1055/QĐ-TTg ngày 30/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Phát biểu khai mạc Tọa đàm, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành Nghị quyết 198 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân; Chính phủ ban hành chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết.
Thủ tướng cho biết sau Hội nghị ngày 18/5 triển khai Nghị quyết 66, 68 của Bộ Chính trị, Thủ tướng đã trao đổi, giải đáp một số câu hỏi của một số đại biểu, nhưng nhiều đại biểu vẫn muốn có thêm ý kiến. Do đó, Thủ tướng chỉ đạo tổ chức cuộc tọa đàm với các doanh nghiệp, hiệp hội về triển khai Nghị quyết 68.
Thủ tướng nêu rõ, các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ đã rất đồng bộ, đầy đủ, vấn đề đặt ra, mong muốn lớn nhất là tổ chức thực hiện thật tốt, thực sự hiệu quả với tinh thần "nghĩ sâu làm lớn", có cách làm hiệu quả nhất, phát huy tốt nhất khả năng của gần 1 triệu doanh nghiệp, 5 triệu hộ kinh doanh, mỗi người đóng góp, mỗi nhà đóng góp thì toàn xã hội mới có nguồn lực lớn để "thay đổi trạng thái, xoay chuyển tình hình", đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.
Thủ tướng đề nghị xác định rõ Nhà nước phải làm gì, chính quyền địa phương phải làm, doanh nghiệp phải làm gì, người dân phải làm gì để triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ về phát triển kinh tế tư nhân; phát huy đoàn kết, thống nhất để cùng nhau làm, với tinh thần "Đảng đã chỉ đạo, Chính phủ thống nhất, Quốc hội đồng tình, nhân dân ủng hộ, Tổ quốc mong đợi thì chỉ bàn làm, không bàn lùi".

Trình bày báo cáo về tình hình phát triển kinh tế tư nhân, Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận cho biết: Nghị quyết 68/NQ-TW đề ra 08 nhóm nhiệm vụ, giải pháp thể hiện tinh thần đổi mới, đột phá, cải cách mạnh mẽ, bảo đảm bám sát 03 đột phá chiến lược (về thể chế, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng) và trong tổng thể 04 Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị mà Tổng bí thư đã kết luận là "Bộ tứ trụ cột".
Để nhanh chóng đưa Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội đi vào cuộc sống, Thứ trưởng Lê Tấn Cận đề nghị cần tập trung triển khai ngay các nhiệm vụ:
Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương xây dựng và ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 138/NQ-CP và Nghị quyết số 139/NQ-CP, trong đó giao nhiệm vụ rõ ràng với thời hạn cụ thể cho các đơn vị tổ chức thực hiện đảm bảo nguyên tắc 6 rõ: "Rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ kết quả".
Tập trung nguồn lực tổ chức triển khai các nhiệm vụ được giao đảm bảo đúng tiến độ, hiệu quả, chất lượng.
Các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp chủ động tăng cường năng lực, hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò đại diện, cầu nối giữa cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước; phát huy vai trò phản biện xã hội trong xây dựng chính sách. Tuyên truyền, vận động doanh nhân thực hiện chuẩn mực đạo đức, văn hoá kinh doanh. Chủ động đề xuất tham gia các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp, hộ kinh doanh phải hoạt động đúng pháp luật, xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh, trung thực, thanh liêm, trách nhiệm xã hội; loại bỏ tư duy làm ăn "chộp giật", phi pháp; đổi mới tư duy kinh doanh, nâng cao năng lực, phẩm chất, trình độ, tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau, đoàn kết, cùng phát triển. Doanh nghiệp lớn phải nỗ lực, tiên phong, dẫn dắt các DNNVV. DNNVV phải có tâm thế phát triển trở thành doanh nghiệp vừa và lớn.

Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam: Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cho thấy những đột phá chưa từng có về quan niệm và tư duy phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết đã đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, quyết liệt, tập trung vào những vấn đề cốt lõi để thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của khu vực kinh tế tư nhân.
Đáng chú ý, chỉ sau chưa đầy hai tuần – chính xác là 12 ngày – kể từ khi Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị được ban hành, Chính phủ đã nhanh chóng ban hành Nghị quyết 138 về kế hoạch hành động cụ thể. Đồng thời, Quốc hội cũng ban hành Nghị quyết 198 về các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân. Đây là một bước tiến chưa từng có, thể hiện sự quyết tâm và đồng bộ của Đảng, Nhà nước trong việc hỗ trợ và phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Công việc trọng tâm hiện nay là thể chế hóa các nghị quyết thành những cơ chế, chính sách cụ thể, có tính khả thi cao trong thực tiễn, nhằm tạo ra những kết quả thiết thực, đúng với mục tiêu đã được xác định.
Chúng tôi nhận thức rõ sứ mệnh, vai trò và trách nhiệm của Hiệp hội trong việc triển khai các nghị quyết của Đảng và Nhà nước, cũng như trong thực tiễn cuộc sống. Cụ thể, Hiệp hội cam kết hợp tác, phối hợp và hỗ trợ các cơ quan Chính phủ, các bộ, ngành trong việc thực thi các chương trình hành động cụ thể, tập trung vào từng nhóm đối tượng doanh nghiệp nhỏ, vừa, siêu nhỏ, và đặc biệt là thúc đẩy chuyển đổi từ hộ kinh doanh sang mô hình doanh nghiệp.
Trong Nghị quyết 138 về kế hoạch hành động của Chính phủ và Nghị quyết 198 của Quốc hội về các chính sách đặc thù phát triển kinh tế tư nhân, các yêu cầu, nhiệm vụ và tiến độ xây dựng, hoàn thiện, cũng như thực thi chính sách đã được nêu rõ. Hiệp hội cam kết nghiên cứu kỹ lưỡng các nghị quyết này để triển khai hiệu quả trên thực tiễn, đóng góp vào sự phát triển bền vững của cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế quốc gia.
Tôi xin đề xuất một số giải pháp trọng tâm liên quan đến cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa, tập trung vào hai nhóm vấn đề chính:
Thứ nhất, Chính phủ cần khẩn trương xây dựng và cụ thể hóa các cơ chế, chính sách phù hợp với từng nhóm đối tượng doanh nghiệp theo quy mô, bao gồm doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, và đặc biệt là hộ kinh doanh. Các chính sách này cần đảm bảo tính phù hợp, khả thi và hiệu quả trong thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi để các nhóm doanh nghiệp phát triển bền vững.
Thứ hai, Chính phủ cần giao nhiệm vụ cụ thể cho Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và vừa Việt Nam, đồng thời định hướng rõ vai trò của Hiệp hội trong việc tham gia phối hợp với các cơ quan nhà nước. Điều này nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là trong việc vận động, hỗ trợ chuyển đổi từ hộ kinh doanh sang mô hình doanh nghiệp.
Để cụ thể hóa các nghị quyết và thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa Việt Nam đề xuất một số giải pháp trọng tâm như sau:
Thứ nhất, cần đẩy nhanh quá trình tháo gỡ các rào cản về thủ tục hành chính và thay đổi tư duy quản lý từ cấm đoán sang kiến tạo phát triển, như tinh thần Thủ tướng đã nhấn mạnh. Cụ thể, Chương trình cắt giảm và đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2025 và 2026 cần đặt mục tiêu cụ thể cắt giảm các thủ tục không cần thiết, đảm bảo không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Để đánh giá hiệu quả một cách khách quan, minh bạch và độc lập, chúng tôi đề xuất thành lập một đơn vị nghiên cứu và báo cáo kết quả độc lập, bao gồm đại diện từ các cơ quan nhà nước và các hiệp hội doanh nghiệp.
Thứ hai, cần tập trung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các nguồn lực then chốt, bao gồm: Đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh; Tài chính và tín dụng ưu đãi; Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Những vấn đề này đã được nêu rõ trong các nghị quyết của Quốc hội, bao gồm Nghị quyết 198 với ba chương trình hành động cụ thể và Nghị quyết 138 về kế hoạch hành động của Chính phủ. Các nhiệm vụ cụ thể đã được phân công cho từng bộ, ngành, địa phương, thể hiện sự kịp thời và nỗ lực lớn của Chính phủ.

Để tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là các hộ kinh doanh, chúng tôi đề xuất một số giải pháp cụ thể:
Thứ nhất, đề nghị Chính phủ nghiên cứu xem xét bãi bỏ hoặc điều chỉnh Chỉ thị 07/CT-TTg ngày 2/3/2012 liên quan đến các cơ sở sản xuất kinh doanh được cấp phép trước khi hình thành các khu công nghiệp. Hiện nay, hàng chục nghìn cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các hộ kinh doanh, đang gặp khó khăn do các quy định liên quan đến Chỉ thị này. Nếu không có giải pháp kịp thời, nhiều cơ sở có nguy cơ phải đóng cửa do không đủ thời gian để chuyển đổi hoặc đáp ứng các yêu cầu mới. Chúng tôi đề xuất Chính phủ xem xét kéo dài thời gian chuyển tiếp, có thể 1-2 năm, để các hộ kinh doanh có đủ thời gian chuyển đổi dần sang mô hình phù hợp, tránh gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc di dời các cơ sở sản xuất kinh doanh vào cụm công nghiệp hoặc khu công nghiệp, chúng tôi đồng thuận rằng đây là định hướng đúng đắn trong dài hạn. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, cần có lộ trình hợp lý và thời gian chuyển tiếp để hỗ trợ các hộ kinh doanh, đặc biệt là hàng triệu lao động đang phụ thuộc vào các cơ sở này. Các vấn đề liên quan như phòng cháy chữa cháy, môi trường, và các quy định pháp lý khác cần được giải quyết linh hoạt, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh tiếp tục hoạt động trong khi chuẩn bị chuyển đổi.
Về chuyển đổi hộ kinh doanh sang mô hình doanh nghiệp nhỏ và vừa, Hiệp hội hoàn toàn ủng hộ chủ trương này và cam kết đồng hành cùng Chính phủ. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả, chúng tôi đề xuất Chính phủ xây dựng một gói chính sách hỗ trợ cụ thể, bao gồm:
• Hỗ trợ pháp lý và tư vấn về thủ tục chuyển đổi.
• Ưu đãi về thuế, tín dụng và tiếp cận nguồn lực để khuyến khích chuyển đổi.
• Tăng cường đào tạo và nâng cao năng lực quản lý cho các hộ kinh doanh.
Chúng tôi tin rằng, với sự quyết tâm của Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ từ các bên liên quan, các giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời hỗ trợ hiệu quả quá trình chuyển đổi từ hộ kinh doanh sang mô hình doanh nghiệp.
Với tâm huyết và mong muốn hỗ trợ chuyển đổi hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể sang mô hình doanh nghiệp, như tinh thần Thủ tướng đã nhấn mạnh, Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và vừa Việt Nam xin đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, để khuyến khích các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp, chúng tôi đề xuất áp dụng chính sách ưu đãi mạnh mẽ, bao gồm:
• Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 3 năm đầu sau khi chuyển đổi, nhằm giảm gánh nặng tài chính và tạo động lực cho các hộ kinh doanh.
• Hỗ trợ các chi phí liên quan đến thủ tục thành lập doanh nghiệp, như tư vấn pháp lý và đăng ký kinh doanh.
Thứ hai, để hỗ trợ các hộ kinh doanh quản lý tài chính và tuân thủ quy định thuế theo phương pháp kê khai, chúng tôi đề xuất Nhà nước cung cấp một ứng dụng (app) kế toán miễn phí. Ứng dụng này sẽ giúp các hộ kinh doanh dễ dàng tự kê khai đầu vào, đầu ra và nộp thuế, từ đó giảm tải cho cơ quan thuế trong việc quản lý hơn 5 triệu hộ kinh doanh.
Chúng tôi đã trao đổi với các nhà khoa học và chuyên gia Quốc hội, và nhận được sự đồng thuận rằng ứng dụng này sẽ giúp: Đảm bảo tính minh bạch, chính xác trong quản lý thuế mà không gây ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách; Tạo thói quen quản lý tài chính chuyên nghiệp cho các hộ kinh doanh, giúp họ nhận thấy lợi ích của việc chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp (miễn thuế, tiếp cận ưu đãi, và các điều kiện hỗ trợ khác).
Thứ ba, chúng tôi đề xuất Nhà nước triển khai các chương trình đào tạo miễn phí về quản lý doanh nghiệp, kế toán, và chuyển đổi số cho các hộ kinh doanh. Các chương trình này sẽ giúp họ làm quen với mô hình doanh nghiệp, nhận thấy lợi ích của việc chuyển đổi, và tự nguyện thực hiện quá trình này mà không cần áp đặt.
Chúng tôi tin rằng, với các chính sách hỗ trợ cụ thể và lộ trình phù hợp, quá trình chuyển đổi từ hộ kinh doanh sang doanh nghiệp sẽ diễn ra nhanh chóng, hiệu quả, và mang lại lợi ích thiết thực cho cả cộng đồng doanh nghiệp lẫn nền kinh tế quốc gia.

Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và vừa Việt Nam xin trình bày thêm một số kiến nghị cụ thể nhằm hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp nhỏ, vừa và các hộ kinh doanh như sau:
Thứ nhất, đề nghị Chính phủ giao nhiệm vụ trực tiếp bằng văn bản cho Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và vừa Việt Nam trong việc tuyên truyền, hỗ trợ, động viên, giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các hộ kinh doanh. Việc giao nhiệm vụ bằng văn bản sẽ tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, giúp Hiệp hội triển khai công việc hiệu quả, tránh các hiểu lầm hoặc phản ứng không mong muốn từ một số bên liên quan. Nội dung cụ thể của nhiệm vụ có thể được bàn bạc chi tiết sau khi có quyết định giao nhiệm vụ từ Thủ tướng và Chính phủ.
Thứ hai, đề nghị Chính phủ giao Hiệp hội làm đầu mối triển khai các chương trình đào tạo, tập huấn và hướng dẫn phát triển cho các nhóm đối tượng, bao gồm hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ. Các chương trình này cần được quy định rõ ràng bằng văn bản để đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả thực thi.
Thứ ba, đề nghị Chính phủ cho phép Hiệp hội tham gia vai trò giám sát và phản biện trong quá trình thực thi các chính sách, quy định pháp luật liên quan đến doanh nghiệp nhỏ, vừa và hộ kinh doanh. Cụ thể, Hiệp hội xin được tham gia vào Ban giám sát với tư cách thành viên, sử dụng các chỉ số hiệu quả (KPI) để đánh giá khách quan, minh bạch việc thực hiện các chính sách.
Thứ tư, để giải quyết khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, đặc biệt là vốn vay với lãi suất thấp, Hiệp hội đề xuất và sẵn sàng nhận nhiệm vụ làm đầu mối xúc tiến thành lập một ngân hàng số dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ, vừa và hộ kinh doanh. Với công nghệ định danh số, ngân hàng này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn tín chấp, giảm rào cản về thủ tục và lãi suất so với các ngân hàng truyền thống hiện nay.
Chúng tôi tin rằng, với sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng và Chính phủ, cùng sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan, các đề xuất trên sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của cộng đồng doanh nghiệp nhỏ, vừa và hộ kinh doanh, đồng thời hỗ trợ hiệu quả quá trình chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp.
Về hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp nhỏ, vừa và hộ kinh doanh, chúng tôi kiến nghị:
Thứ nhất, về vấn đề lãi suất vốn vay, chúng tôi nhận thấy việc giảm lãi suất so với mức hiện tại của các ngân hàng thương mại là rất cần thiết để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, việc này không thể chỉ dựa vào ý chí mà cần phụ thuộc vào điều kiện thị trường và các yếu tố quốc tế. Do đó, chúng tôi đề xuất Chính phủ nghiên cứu các cơ chế hỗ trợ cụ thể, chẳng hạn như chính sách ưu đãi lãi suất hoặc bảo lãnh tín dụng, để đảm bảo doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận nguồn vốn với chi phí thấp hơn, qua đó nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Thứ hai, đề nghị Chính phủ cho phép Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và vừa tổ chức các chương trình tôn vinh và trao giải thưởng cho cán bộ, công chức, viên chức, cũng như các cá nhân và doanh nghiệp có đóng góp nổi bật cho sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương trình này sẽ không phân biệt doanh nghiệp lớn, nhỏ hay siêu nhỏ, và sẽ áp dụng cho cả các cán bộ, công chức, viên chức có đóng góp tích cực. Việc tôn vinh có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhằm khích lệ tinh thần cống hiến và sáng tạo.
Thứ ba, để tạo điều kiện cho Hiệp hội hoạt động hiệu quả, chúng tôi đề nghị Chính phủ và Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội nghiên cứu hỗ trợ Hiệp hội thuê một trụ sở tại Hà Nội với chi phí ưu đãi. Hiện nay, nhiều địa phương đã hỗ trợ các hiệp hội doanh nghiệp tại địa phương bằng cách cung cấp trụ sở làm việc. Tuy nhiên, ở cấp Trung ương, Hiệp hội vẫn chưa có trụ sở ổn định. Việc hỗ trợ này sẽ giúp Hiệp hội có điều kiện triển khai tốt hơn các nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, chúng tôi kính đề nghị Thủ tướng và Chính phủ sớm ban hành các quyết định giao nhiệm vụ cụ thể cho Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa, đồng thời tạo điều kiện về thời gian và nguồn lực để chúng tôi chuẩn bị và triển khai hiệu quả các chương trình hành động. Điều này sẽ giúp Hiệp hội phát huy vai trò cầu nối giữa Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chúng tôi tin rằng, với sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng và sự hỗ trợ từ các cơ quan liên quan, các đề xuất này sẽ mang lại kết quả thiết thực, góp phần vào sự phát triển mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp nhỏ, vừa và hộ kinh doanh.

Bà Mai Kiều Liên, Tổng Giám đốc Vinamilk: Hôm nay nghe Thủ tướng và các Phó Thủ tướng phát biểu, chúng tôi nghĩ là nếu chúng ta thực hiện được như vậy thì không phải là 2025 cho tới 2030 mới thực hiện xong mà chúng ta có thể thần tốc như Chiến dịch Hồ Chí Minh, chỉ trong vòng mấy tháng thôi cũng có thể thực hiện được rồi và tôi nghĩ chúng ta làm được.
Đất nước chúng ta trải qua rất nhiều chiến tranh và những lúc rất khó khăn nhưng từ Nghị quyết của Đại hội 6 về đổi mới, lúc đó Đảng và Nhà nước đã giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp rồi. Từ chỗ chúng ta ăn đong, phải đi nhập lương thực, đến lúc chúng ta tự túc và xuất khẩu được lương thực thì đó là một chủ trương đã huy động được toàn bộ lực lượng của nhân dân để góp phần cùng Nhà nước phát triển kinh tế. Rồi đến Đại hội 8 có chủ trương cổ phần hóa, từ đó hàng loạt công ty tư nhân ra đời và góp phần rất lớn hình thành lực lượng kinh tế tư nhân của đất nước Việt Nam ngày càng lớn mạnh. Chúng tôi nghĩ là chỉ trong năm mười năm thôi, các công ty tư nhân đã vượt bậc rất nhiều. Nghị quyết 68 hiện nay của Trung ương và của Bộ Chính trị sẽ là một cột mốc mới nữa để cho chúng ta phát triển kinh tế.
Đất nước chúng ta xuất phát điểm thấp vì phải trải qua một thời gian rất dài chiến tranh, bị cấm vận. Nhưng chúng ta có lợi thế đi tắt đón đầu. Có những công nghệ mới có thể phải học, nghiên cứu 10, 15 năm thì chúng ta bây giờ có thể tiếp nhận và áp dụng được luôn. Đó là một lợi thế rất lớn của những nước đi sau. Ví dụ như đường cao tốc Bắc Nam có thể thế giới có từ lâu rồi và phát triển rất lâu nhưng nếu chúng ta tập trung thì có thể làm được ngay. Chúng ta ứng dụng công nghệ mới nhất thì rất hiệu quả.
Nghị quyết, chính sách của Chính phủ đưa ra rất rõ ràng. Vấn đề là chúng ta thực thi như thế nào? Tất cả là do con người. Ở doanh nghiệp cũng thế thôi, thành bại do con người và một đất nước cũng vậy. Nếu tất cả mọi người cùng đồng lòng với Chính phủ thực hiện đúng, đủ và như chính sách Chính phủ đã đề ra, tôi nghĩ tất cả các doanh nghiệp sẽ phát triển và đó là một xu hướng của thế giới. Chúng ta không phải chỉ có GDP, không phải chỉ có doanh số mà còn phát triển bền vững, sạch, xanh. Doanh nghiệp, cả nhà nước và tư nhân, đều tuân thủ pháp luật, nhưng có những việc pháp luật không cấm nhưng chúng ta cũng sẽ không làm vì những gì lợi mình mà hại người thì không làm. Chúng tôi nghĩ những doanh nghiệp như thế sẽ phát triển bền vững và càng ngày càng phát triển.
Điều cuối cùng chúng tôi kiến nghị là bây giờ chính sách rất nhiều, pháp luật rất nhiều, doanh nghiệp chúng tôi hứa sẽ tuân thủ pháp luật của Nhà nước để phát triển. Nhưng có một đề nghị là trong quá trình thực hiện mà có lúc bị trục trặc, vướng mắc thì rất mong các bộ, ngành, các cấp và Chính phủ xử lý, giải quyết nhanh. Đối với doanh nghiệp, nhiều khi có cơ hội thì có thể đi nhanh trước 5, 10 năm còn nếu mất cơ hội thì phải chậm mất 50 năm. Như với doanh nghiệp của chúng tôi, vấn đề phát sinh từ dưới lên tới Tổng Giám đốc thì yêu cầu chỉ trong 48 tiếng, người quyết định cuối cùng phải xử lý xong. Đối với Chính phủ, tôi mong có thể cho thời gian là bao nhiêu, từ khi có vấn đề vướng mắc cho đến khi lên tới Thủ tướng? Trong vòng 7 ngày, 15 ngày, bao nhiêu cũng được. Nghĩa là có một thời gian nhất định để giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp. Nếu giải quyết được những điều đó, sẽ giống như luồng nước, nghẹt chỗ nào thì sẽ đứng im, còn nếu được khơi thông thì sẽ phát triển.

Ông Trương Gia Bình, Trưởng ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân trực thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính: Đã có doanh nhân ví việc áp dụng Nghị định 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân như "nắng hạn gặp mưa rào". Doanh nghiệp cho rằng "mưa rào" này là niềm hy vọng mới, kỳ vọng về sự "tin yêu" của Đảng, Chính phủ và Nhà nước.
Doanh nghiệp mong muốn được Đảng, Chính phủ và Nhà nước luôn hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để các doanh nghiệp đều có cơ hội phát triển, phục vụ sự phát triển kinh tế của đất nước.
Sinh thời Đại tướng Võ Nguyên Giáp có chia sẻ với các doanh nhân rằng, đã đến lúc chúng ta cần có những "trận Điện Biên Phủ mới". Chúng ta cần ngồi lại để lập kế hoạch tác chiến 2055-2030 với những "trận đánh" mới như phát triển đường sắt cao tốc Bắc-Nam, phát triển những nút giao thông của toàn thế giới, xây dựng trung tâm tài chính thế giới, đẩy mạnh phát triển công nghệ, du lịch và nông nghiệp...
Để thực hiện những "trận đánh" này, cần sự đồng lòng, chung tay đoàn kết của cả đất nước. Được sự "tin yêu" của Đảng, Chính phủ, Nhà nước và chính quyền các cấp, doanh nghiệp chúng tôi cam kết sẽ hết lòng cống hiến, chiến đấu để cùng nhau phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Ông Nguyễn Quốc Hiệp – Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam: Trước hết, là một doanh nghiệp, chúng tôi cho rằng Nghị quyết 66 và 68 của Bộ Chính trị thực sự là chìa khoá vàng mở cửa cho các doanh nghiệp vượt qua những rào cản lâu nay trong môi trường kinh doanh vốn dĩ đã rất khắc nghiệt. Đó là một cuộc cách mạng nhận thức đối với vai trò của các doanh nghiệp tư nhân trong sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, từ nhận thức đến hành động cụ thể là một quá trình đòi hỏi tất cả hệ thống chính quyền các cấp cùng vào cuộc.
Điểm mới trong Nghị quyết 66 và 68, chắc chắn các doanh nghiệp ở đây đều đã thấy rất rõ. Với đặc điểm là một doanh nghiệp đầu tư bất động sản, đồng thời đại diện cho Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam, tôi xin kiến nghị với Thủ tướng một vài điểm sau:
Thứ nhất, về cơ chế thanh kiểm tra. Trong Nghị quyết 68 đã nêu rõ, mỗi năm chỉ thanh tra mỗi doanh nghiệp một lần nếu cần. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng nếu không cụ thể hoá và chỉ rõ đâu là cơ quan điều phối công tác thanh tra, kiểm tra thì vẫn xảy ra tình trạng kiểm tra chồng chéo doanh nghiệp. Ví dụ cơ quan thuế, cơ quan quản lý đất đai, cơ quan quản lý xây dựng, quy hoạch, cơ quan quản lý phòng cháy, chữa cháy,… đều có thể vào kiểm tra các doanh nghiệp bất động sản. Vậy thì cơ quan nào sẽ điều phối công tác thanh kiểm tra để mỗi năm doanh nghiệp chỉ phải kiểm tra, thanh tra một lần? Ở đây các bộ, ngành đều độc lập với nhau, chưa kể các cơ quan chính quyền địa phương cũng có thể yêu cầu kiểm tra doanh nghiệp. Vì vậy, đây là vấn đề chúng tôi rất mong được quan tâm, chỉ đạo để gỡ, giúp doanh nghiệp không bị vướng vì một lần kiểm tra mất rất nhiều thời gian.
Thứ hai, về vấn đề thể chế và hệ thống pháp luật, chúng tôi cho đây là vấn đề các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp bất động sản nói riêng thấy còn rất nhiều vướng mắc, ách tắc, mặc dù gần đây Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật Kinh doanh bất động sản 2023 và nhiều luật khác để tháo gỡ khó khăn cho thị trường. Trong quá trình áp dụng các luật mới, Chính phủ đều ra các nghị định, thông tư hướng dẫn cụ thể, nhưng có một số văn bản có những quy định chưa thực sự hợp lý, chính xác khi áp dụng vào các trường hợp cụ thể. Ví dụ Nghị định 103 về hướng dẫn thu nộp tiền sử dụng đất với doanh nghiệp còn rất bất cập và bất hợp lý vì định giá đất, doanh nghiệp không được tham gia nhưng khi định giá đất chậm, doanh nghiệp phải nộp bổ sung. Đây là khoản tiền chúng tôi cho rằng hết sức bất cập và rất mong Thủ tướng Chính phủ tháo gỡ vấn đề này. Ngoài ra còn các nghị định khác, ví dụ như việc đấu thầu, dự án có quyền sử dụng đất còn một số điểm chúng tôi cho rằng chưa hợp lý, nên các doanh nghiệp khi áp dụng hết sức khó khăn. Thế nên chúng tôi kiến nghị, các văn bản pháp quy trước khi ban hành cần có sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia, đối tượng trực tiếp bị chi phối một cách cụ thể; chất lượng các văn bản cần được kiểm tra chặt chẽ vì việc sửa một văn bản gây ra rất nhiều lãng phí cho các doanh nghiệp cả về thời gian và tiền bạc.
Thứ ba, về quan điểm, Nghị quyết 68 yêu cầu doanh nghiệp là đối tượng phục vụ thay vì đối tượng quản lý. Đây là vấn đề doanh nghiệp đều rất tâm đắc. Tuy nhiên thay đổi 4 chữ đó trong văn bản thực hiện như thế nào là một cuộc cách mạng về tư duy, nhận thức đối với công chức của chúng ta hiện nay. Thực tế chúng tôi đã gặp ở một địa phương, khi đấu thầu dự án có quyền sử dụng đất, do các nghị định hướng dẫn không rõ ràng nên Sở Kế hoạch và Đầu tư tại địa phương đó yêu cầu doanh nghiệp phải hỏi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trực tiếp là Cục Đấu thầu và Vụ Pháp chế, mất 5 tháng để trả lời nhưng cũng không trả lời được rõ ràng vì văn bản không đi thẳng vào vấn đề, chỉ viện dẫn điều luật và yêu cầu địa phương áp dụng. Sau 5 tháng đó, chúng tôi có hỏi Bộ Nông nghiệp và Môi trường thì mới xử lý xong. Như vậy mất 7 tháng và doanh nghiệp phải chờ đợi thủ tục, giấy tờ không rõ ràng. Nếu là quan điểm phục vụ, chắc là chúng tôi sẽ được trả lời sớm hơn. Để thực hiện được quan điểm này, chúng tôi kiến nghị cho phép cứ 6 tháng một lần, các địa phương cần có các cuộc gặp mặt với doanh nghiệp đầu tư, sản xuất, kinh doanh trên địa bàn theo từng lĩnh vực để góp ý cho bộ máy công quyền các thủ tục hành chính cần rút kinh nghiệm và cần thay đổi trong công tác quản lý điều hành.
Về đơn giản thủ tục hành chính, hiện nay chúng ta đều đang phấn đấu để tiết giảm 30% thủ tục hành chính. Chúng tôi cho rằng để đơn giản thủ tục hành chính có 2 khâu. Thứ nhất, cần giảm bớt các thủ tục pháp lý trong các bước đầu tư kinh doanh, ví dụ cắt giảm trong các khâu cấp phép đầu tư, điều chỉnh quy hoạch cấp phép xây dựng mà vừa rồi, ngày 29/5, Thủ tướng có ký Công điện 78 gửi các bộ ngành. Đối với các thủ tục không bỏ được, cần cụ thể cách điều hành, số hoá cách thực hiện, và cần có thời gian cụ thể và địa chỉ chịu trách nhiệm. Riêng với lĩnh vực đầu tư bất động sản, cần có cơ quan thống nhất quy định thủ tục bắt buộc, tối giản với quy trình đầu tư để hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện. Bên cạnh đó, với góc độ đại diện của Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam, trong bối cảnh đất nước đang từng ngày đổi mới, chuẩn bị triển khai những dự án, công trình trọng điểm quốc gia như Dự án đường sắt tốc độ cao, xin kiến nghị với Thủ tướng các nội dung sau:
Thứ nhất đề nghị thay đổi, bỏ hệ thống đơn giá định mức chi tiết, xây dựng đơn giá tổng hợp cho một đơn vị sản phẩm như thế giới hiện nay đang làm. Đây là việc cần thiết và phù hợp, đặc biệt tạo cho nhà thầu có thể phát huy đầy đủ năng lực trong thi công xây dựng. Đặc biệt thay đổi đơn giá tiền lương để khuyến khích lực lượng lao động trong ngành xây dựng. Hiện nay chỉ có một mình nước ta còn sử dụng đơn giá định mức chi tiết, còn các nước người ta dùng đơn giá tổng hợp. Thêm nữa đơn giá tiền lương quá bất cập, hiện chỉ bằng 40% tiền lương thực tế phải trả.
Thứ hai là cơ chế đặc thù. Trong bối cảnh các dự án lớn đang đòi hỏi nguồn lực vô cùng to lớn, toàn ngành xây dựng, kính đề nghị Thủ tướng cho thực hiện cơ chế hoặc chỉ định thầu có điều kiện để có đủ thời gian chuẩn bị lực lượng, xe máy, thiết bị, cũng như công nghệ. Trên cơ sở đó phát huy được sức mạnh tổng thể của các nhà thầu. Hiện nay Hiệp hội đang tiến hành chuẩn bị chương trình sắp xếp năng lực các nhà thầu, xếp hạng các nhà thầu và trong bối cảnh này, chúng ta chưa có năng lực xếp hạng cụ thể. Hiệp hội sẽ giới thiệu các nhà thầu tiêu biểu, đủ khả năng để Thủ tướng xét.
Điểm cuối cùng, về công tác đào tạo, phát triển để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi, tiếp nhận khoa học công nghệ, kỹ thuật mới, hiện các nhà thầu Việt Nam đại đa số là các nhà thầu quy mô nhỏ và vừa nên gặp khó khăn trong công tác đào tạo. Do đó, cần có cơ chế công tư phối hợp trong công tác đào tạo để đáp ứng nhu cầu lực lượng xây dựng của ngành xây dựng. Hiệp hội đã có văn bản kiến nghị chính thức với Bộ Xây dựng, xin được gặp mặt trình bày tất cả những vướng mắt của ngành xây dựng.

Chủ tịch Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam Trần Mạnh Báo: Để Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đi vào cuộc sống, thực sự trở thành động lực cho nền kinh tế đất nước, tôi xin được chia sẻ một số khó khăn các doanh nghiệp đang gặp phải:
Thứ nhất, về chính sách đất đai đối với nghiên cứu phát triển giống cây trồng, đất đai là nền tảng của sản xuất nông nghiệp, là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp phát triển, nghiên cứu, thử nghiệm sản xuất. Nhưng hiện nay việc tiếp cận đất đai vẫn còn vướng mắc, thủ tục kéo dài, chưa có khung pháp lý riêng cho doanh nghiệp khoa học công nghệ sử dụng đất đai nghiên cứu, khảo nghiệm, chọn tạo, sản xuất, điều này khiến nhiều doanh nghiệp không thể mở rộng, định hướng.
Thứ hai, cơ chế thuế, tín dụng còn bất cập, việc tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho đổi mới sáng tạo, dù có chủ trương nhưng thực tế còn nhiều rào cản. Các quỹ khoa học công nghệ còn hạn chế, chưa có cơ chế mở để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận.

Thứ ba, còn sự chồng chéo giữa Luật Khoa học công nghệ và Luật Trồng trọt.
Thứ tư, doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khó khăn trong tiếp cận chuyển đổi số, ứng dụng chuyển đổi số, chưa có chính sách hỗ trợ cụ thể.
Từ đó tôi xin được kiến nghị: Thứ nhất, Nhà nước sớm xây dựng và ban hành cơ chế riêng cho doanh nghiệp khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp bao gồm đất đai, tín dụng, thuế, đào tạo.
Thứ hai là sửa Luật Trồng trọt, thống nhất với các luật khác.
Thứ ba là tạo các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo, ưu tiên các doanh nghiệp tư nhân có năng lực nghiên cứu và ứng dụng.
Thứ tư, xây dựng và ban hành cơ chế hợp tác và chuyển giao giữa khối tư và công.

TS. Trần Đình Thiên: Cách đây 40 năm, khi chúng ta thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, thì thực ra kinh tế tư nhân đã đóng góp vai trò chuyển đổi phù hợp và hiệu quả, đã cứu nền kinh tế đang khủng hoảng và giúp chúng ta có nền kinh tế như hiện nay. Bây giờ, sau 40 năm, chúng ta lại có cơ hội ở một tầm vóc mới để thực hiện nhiệm vụ có ý nghĩa to lớn hơn, đó là làm sao để khu vực kinh tế tư nhân phát huy mạnh mẽ, nhất là khi hiện nay kinh tế tư nhân đã được Đảng, Nhà nước khẳng định là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận thực tế là hiện nay khu vực doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam đang gặp khó khăn, không chỉ về mặt thể chế, mà còn nhiều khó khăn chưa từng có.
Đề xuất đầu tiên là câu chuyện làm thể chế cho khu vực tư nhân, thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển. Tôi cho rằng tăng số lượng Đại biểu Quốc hội là doanh nghiệp tư nhân Việt Nam để tham gia vào quá trình xây dựng Luật nhiều hơn. Điều này cũng liên quan đến đề xuất cần có nhiều nhà khoa học tích cực tham gia vào thiết kế luật, thể chế, chiến lược cho nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế công nghệ cao, nền kinh tế số. Không ai hiểu những đòi hỏi của nền kinh tế công nghệ cao, nền kinh tế thị trường hiện đại hơn các doanh nghiệp tư nhân và các nhà khoa học.
Thứ hai, chúng tôi thấy Nghị quyết 68-NQ/TW đã thể hiện sự đổi mới chưa từng thấy trong quá trình làm cải cách thể chế của Việt Nam và đây thực sự là một thành công. Với thể chế này, chúng ta làm tốt quá trình hành động thì không gì là không thể đạt được. Tôi đề nghị chương trình triển khai Nghị quyết số 68 nên ráo riết thực hiện để đạt mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm nay. Chúng ta thấy rằng, trong bối cảnh tiềm ẩn nhiều nguy cơ như hiện nay, việc cởi trói cho doanh nghiệp, cởi trói cho các dự án để đạt tăng trưởng 8% và duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong các năm sau đó sẽ tạo điều kiện để chúng ta đạt mục tiêu đã đề ra.
Thứ ba, Nghị quyết 68 đã mang tới những chuyển biến rất cụ thể, trực tiếp và mang tính đột phá. Nhưng còn môi trường chung để bảo đảm cho doanh nghiệp tư nhân phát triển thì quan trọng nhất là môi trường kinh doanh tự do, bình đẳng, có sự tham gia của nhiều chủ thể chuyên nghiệp. Đặc biệt là thị trường chất xám, thị trường trí tuệ vô cùng quan trọng đối với khu vực kinh tế tư nhân và quyết định việc các doanh nghiệp tư nhân có bứt phá được hay không. Tôi cho rằng phải tập trung vào xử lý những vấn đề của thị trường đất đai, thị trường tài chính, thị trường bất động sản để doanh nghiệp tư nhân Việt Nam tiếp cận được các nguồn lực này một cách thuận lợi và hiệu quả.
Cuối cùng, tôi đề nghị các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm đến khu vực doanh nghiệp liên quan đến đổi mới sáng tạo, công nghệ cao, bởi đây là mặt trận cạnh tranh mang tính quyết định của quốc gia với thế giới. Nếu chúng ta chậm trễ trong việc tạo ra môi trường thể chế cho khu vực đổi mới sáng tạo, chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội. Đặc biệt, trong thời đại hiện nay, nếu không có hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ thực sự tốt, thì sau này sẽ trở nên rườm rà, kém hiệu quả trong khi tới đây, nguồn lực quan trọng nhất để phát triển nền kinh tế chính là trí tuệ, sáng tạo. Cho nên, tôi đề nghị Chính phủ cùng Quốc hội có chương trình để tiến tới xây dựng hệ thống thể chế cho nền kinh tế tương lai thật kịp thời, không phải chỉ dừng lại ở cơ chế thử nghiệm (sandbox) mà phải có hệ thống thể chế tốt. Nếu không, chúng ta lại lặp lại tình trạng hệ thống thể chế chồng chéo, mâu thuẫn và lạc hậu khiến chúng ta khó có thể cạnh tranh được với thế giới trong tương lai.
Tôi rất mong Toạ đàm của Chính phủ ngày hôm nay sẽ là động lực để doanh nghiệp Việt Nam chuyển mình, đứng dậy, và vươn lên cạnh tranh sòng phẳng với thế giới, có những tập đoàn lớn làm nòng cốt cho các chuỗi giá trị sản xuất của Việt Nam.

TS. Cấn Văn Lực: Tôi xin nêu 7 vấn đề cũng là 7 đề xuất kiến nghị sau:
Thứ nhất, Nghị quyết số 138 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết số 198 của Quốc hội và mới nhất là Nghị quyết số 139 của Thủ tướng Chính phủ đều là những định hướng then chốt, cần được triển khai đồng bộ.
Thứ hai, cần sớm ban hành Nghị định về cơ chế hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp, tiến tới việc áp dụng chính sách nộp thuế phù hợp cho khu vực này, tương xứng với vai trò và đóng góp thực tế. Bởi lẽ, khu vực hộ kinh doanh hiện đang chiếm khoảng 23,5% GDP của Việt Nam.
Thứ ba, cần đẩy nhanh việc sửa đổi một số luật quan trọng, bao gồm Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Doanh nghiệp và Luật Phá sản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, cần nâng cao vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, và tiến tới luật hóa hoạt động của hiệp hội doanh nghiệp – điều đang rất được cộng đồng doanh nghiệp mong đợi.
Tôi được biết hiện nay một số địa phương đang thực hiện sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp quận, huyện, dẫn đến nhiều hội, hiệp hội ở cấp quận, huyện gặp khó khăn trong hoạt động, nhất là tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Rất mong Thủ tướng Chính phủ sớm chỉ đạo để các địa phương có hướng tháo gỡ phù hợp cho vấn đề này.
Thứ tư, chúng ta cần triển khai hiệu quả các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp và hộ kinh doanh, đặc biệt là trong các lĩnh vực đất đai, khoa học – công nghệ, vốn, nguồn nhân lực, cũng như chuyển đổi theo hướng xanh và bền vững.
Theo đó, tôi kiến nghị hai nhóm giải pháp trọng tâm: Thứ nhất, cần phát triển thị trường tài chính một cách cân bằng hơn, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường chứng khoán. Rất mong Chính phủ tiếp tục thúc đẩy việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam ngay trong năm nay, đúng theo lộ trình Thủ tướng Chính phủ đã đề ra. Đồng thời, cần sớm thành lập trung tâm tài chính quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, với cách làm và mô hình phù hợp, nhằm tạo động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế.
Thứ hai, đề xuất Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng ở cấp Trung ương và khởi động lại 28 Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các địa phương. Bên cạnh đó, cần sớm thành lập Quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh, trong đó có cơ chế hỗ trợ lãi suất 2% cho các doanh nghiệp chuyển đổi xanh. Đồng thời, cho phép thúc đẩy mạnh mẽ hơn các quỹ đầu tư mạo hiểm, bởi vì đây mới là kênh vốn chính cho phát triển khoa học – công nghệ và chuyển đổi số, chứ không thể chỉ dựa vào nguồn tín dụng ngân hàng truyền thống trong các lĩnh vực này.
Thứ ba, cần đặt hàng cho các doanh nghiệp tư nhân lớn thực hiện một số chương trình, dự án trọng điểm quốc gia. Việc hỗ trợ cần dựa trên mức độ đóng góp thực tế của doanh nghiệp, chứ không chỉ căn cứ vào quy mô. Đây là cách để phát triển lực lượng doanh nghiệp dân tộc mạnh, đóng vai trò dẫn dắt nền kinh tế.
Điểm thứ năm là hỗ trợ doanh nghiệp tăng cường kết nối một cách thiết thực. Tại Diễn đàn ASEAN vừa qua, một trong bốn trụ cột hợp tác là "kết nối" – vậy thì kết nối bằng cách nào? Tôi đề nghị chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ phương thức xúc tiến thương mại và đầu tư hiện nay, hướng tới mô hình xúc tiến có trọng tâm, chủ động, thực chất và hiệu quả.
Đồng thời, cần tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, vừa để mở rộng không gian phát triển, vừa góp phần nâng tầm vị thế kinh tế đất nước trên trường quốc tế.
Về câu chuyện nợ công, tôi cho rằng chúng ta đã có những chủ trương rất đúng đắn và cách tiếp cận rất hay. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là khâu tổ chức thực hiện cần được cải thiện mạnh mẽ hơn để đảm bảo hiệu quả trên thực tế.
Thứ sáu, cần hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, thống kê và dữ liệu cho nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng. Hiện nay, các số liệu và chỉ tiêu vẫn còn thiếu thống nhất, thậm chí mâu thuẫn với nhau giữa các cơ quan. Điều này gây khó khăn lớn trong công tác điều hành, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế số, khi dữ liệu chính xác và đồng bộ là điều kiện tiên quyết.
Thứ bảy, hôm nay, tại diễn đàn này có sự hiện diện của rất nhiều doanh nghiệp và hộ kinh doanh – tôi xin nhấn mạnh rằng: Giải pháp quan trọng mà Nghị quyết 68-NQ/TW đề ra chính là xây dựng đội ngũ doanh nhân có năng lực, có văn hóa, tuân thủ pháp luật và hành xử theo chuẩn mực đạo đức kinh doanh. Đây không chỉ là yêu cầu của thời đại, mà còn là đòi hỏi chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta đang đặt ra đối với cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tập đoàn Công nghệ CMC Nguyễn Trung Chính: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã giải quyết căn bản những vấn đề vướng mắc cần tháo gỡ cho các doanh nghiệp.
Chúng ta đã nghe Chính phủ kiến tạo, giờ đây, tôi cho rằng, doanh nhân, doanh nghiệp cần có tinh thần cùng Chính phủ kiến tạo để xây dựng, phát triển đất nước. Sự chủ động của doanh nghiệp, doanh nhân là rất quan trọng. Doanh nghiệp, doanh nhân là chủ thể để thay đổi và xây dựng sự phát triển của đất nước.
Theo tôi, hiện nay, các doanh nghiệp khi kiến nghị tháo gỡ khó khăn cho hoạt động của mình vẫn còn mang tính đơn lẻ. Nếu chúng ta chuyển từ việc kiến nghị đơn lẻ sang việc thông qua các Hiệp hội để cùng có những ý kiến kiến nghị tới Chính phủ, chính quyền các địa phương để cùng xây dựng các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn thì sẽ hiệu quả hơn.
Chúng ta cũng đã biết Nghị quyết số 68-NQ/TW đặt ra mục tiêu quan trọng cắt giảm 30% thủ tục hành chính. Tôi cho rằng, các doanh nghiệp doanh nhân cần tham gia chủ động và tích cực, đóng góp vào việc rà soát xem cần cắt giảm bao nhiêu % thủ tục. Đã đến lúc doanh nghiệp của chúng ta hãy chủ động tích cực tham gia vào quá trình kiến tạo.
Dẫn chứng như thủ tục về xây dựng thì vừa rồi có quy định mới là nếu đã có quy hoạch 1/500 rồi thì không có cớ gì chúng ta phải đi xin một cái giấy phép xây dựng nữa.
Tiếp theo ý kiến của anh Trương Gia Bình, tôi cũng xin kiến nghị nhận được sự tin tưởng của Chính phủ, được có cơ hội tham gia vào các dự án xây dựng hạ tầng quốc gia. Ví dụ như hạ tầng số, hạ tầng giao thông. Đối với dự án xây dựng đường sắt cao tốc, tôi cho rằng là các doanh nghiệp lớn của Việt Nam như là Hòa Phát, như là Vingroup, Thaco và các doanh nghiệp công nghệ của chúng ta có thể tham gia và đủ năng lực để làm được những công trình như vậy.
Các doanh nghiệp trong nước có thể liên doanh hợp tác để thực hiện những công trình dự án lớn mà hiện nay đang phải thuê nhà thầu nước ngoài thi công.

Ông Trần Đình Long, Chủ tịch Tập đoàn Hòa Phát: Nghị quyết 68 quá tuyệt vời rồi. Trong cuộc họp các doanh nghiệp lớn cách đây sáu tháng, chúng tôi cũng mong ước đề xuất như thế và không ngờ là Nghị quyết 68 ra đời còn mở hơn thế. Ở đây tôi chỉ xin góp ý là có Nghị quyết 68, sau đó đến Nghị quyết 198 của Quốc hội rồi thì bây giờ các nghị định, thông tư của Chính phủ cũng cần rõ ràng và cụ thể hơn.
Trong các nghị định của Chính phủ hoặc trong phát ngôn của các quan chức Chính phủ phải nói rất rõ ràng và thể hiện quan điểm rõ ràng là: Điều kiện tiên quyết là bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước. Như dự án đường sắt cao tốc là thời cơ nghìn năm. Nếu muốn làm nhanh thì gọi thầu nước ngoài là xong. Nhưng nếu chúng ta muốn bảo vệ ngành đường sắt trong nước thì bắt buộc phải bảo vệ sản xuất trong nước. Ở đây tôi cũng đại diện cho nhiều anh em lắm, từ Nam chí Bắc, đang rất phấn khởi đất. Chúng tôi đề nghị là trong tất cả các nghị quyết của Chính phủ phải có tỷ lệ rõ ràng và được đưa vào văn bản cụ thể. Tôi mạnh dạn đề nghị là tất cả các dự án đầu tư công, ví dụ như là đường cao tốc, tỷ lệ phải là 70% hàng sản xuất trong nước. Đấy là điều kiện tiên quyết.
Văn bản phải rõ ràng hơn, tránh những trường hợp có dự thảo nghị định về đặt hàng diễn đạt không rõ ràng, hiểu thế nào cũng được. Ví dụ như Nghị định về đặt hàng nói "ưu tiên dùng hàng trong nước", theo tôi nói rõ luôn là "phải dùng hàng trong nước sản xuất được" chứ không phải "ưu tiên".
Chúng tôi rất mong các cấp lãnh đạo dùng từ ngữ công bố rõ ràng là ủng hộ sản xuất trong nước.

Sau phát biểu của Hòa Phát, Thủ tướng cho biết rất đồng ý với quan điểm về yêu cầu kinh nghiệm của doanh nghiệp, nhà đầu tư. Thực tế có tình trạng đặt ra yêu cầu nhà đầu tư phải có kinh nghiệm trong một lĩnh vực nào đó thì mới được tham gia.
Thủ tướng cho rằng, các cơ quan quản lý nhà nước phải phân biệt rõ ràng về điều kiện, tiêu chuẩn của nhà đầu tư với điều kiện, tiêu chuẩn của nhà thầu. Nhà đầu tư có tiền thì có thể đầu tư bất kỳ lĩnh vực nào mà người ta có hiệu quả, lợi nhuận, nên không cần phải có kinh nghiệm. Ví dụ, có thể quy định nhà đầu tư casino phải có 2 tỷ USD mới được đầu tư vào casino vào Việt Nam, nhưng đừng đòi hỏi họ phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực này, họ có thể tổ chức kinh doanh, thuê nhà thầu có kinh nghiệm, thuê ai quản lý là việc của họ. Đây chính là ách tắc trong thủ tục hành chính cần giải quyết.

Chủ tịch Liên minh HTX Cao Xuân Thu Vân: Phát triển kinh tế tư nhân cũng chính là phát triển kinh tế tập thể HTX, một mối quan hệ cộng sinh. Một nền kinh tế hiện đại không thể chỉ phát triển dựa trên sự chia tách, cần theo hướng kết cấu dọc ngang, ở đây là doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã, để mở ra một không gian tăng trưởng mới. Doanh nghiệp tư nhân có thể xem HTX là đối tác cung ứng bền vững, có khả năng tập trung vùng nguyên liệu, sản phẩm năng lượng sạch, chất lượng cao, đảm bảo được truy xuất nguồn gốc. HTX có thể xem doanh nghiệp là bệ đỡ công nghệ, có kinh nghiệm về quản trị, thị trường, tài chính để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Phát triển kinh tế tập thể là một cách bền vững, cũng chính là phát triển HTX, cũng như phát triển doanh nghiệp tư nhân. Mối quan hệ này không chỉ mang tính tương hỗ mà còn tạo ra một hệ sinh thái cộng sinh mang lại giá trị cao cho 2 phía.
Thứ nhất, HTX là bệ đỡ vững chắc cho kinh tế tư nhân ở khu vực nông thôn. HTX tổ chức sản xuất, giúp cho hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ tiếp cận được đầu vào, đầu ra, tín dụng và kỹ thuật với chi phí hợp lý. Doanh nghiệp tư nhân có thể đặt hàng cho HTX để sản xuất theo quy chuẩn, phục vụ xuất khẩu hoặc phân khúc tiêu dùng cao cấp. Doanh nghiệp tư nhân chính là động lực để nâng cấp HTX từ sản xuất truyền thống, nhỏ lẻ sang đầu tư cho HTX phát triển theo kiểu mới, hiện đại. Nhiều HTX kiểu mới cũng được dẫn dắt bởi doanh nghiệp tư nhân, bởi doanh nhân có điều kiện phát triển, đầu tư công nghệ, quản trị, logistic, giúp HTX hoạt động như doanh nghiệp thực thụ. Việc góp vốn, chia sẻ mô hình HTX vệ tinh đang tạo nên một cụm liên kết quy mô sản xuất lớn.
Thứ ba là cùng phát triển hệ sinh thái ở từng địa phương, vùng kinh tế, nhiều nơi đã thành công khi phát triển 3 trụ: HTX, doanh nghiệp tư nhân và chính quyền địa phương, chứng minh có hiệu quả khi mỗi bên phụ trách thực hiện 1 mảnh ghép, đó là sản xuất, chế biến và thực hiện chính sách, hạn chế việc làm gãy chuỗi cung ứng.
Thứ tư, kinh tế tư nhân giúp cho HTX tiến nhanh vào nền kinh tế số. Sàn thương mại điện tử do kinh tế tư nhân vận hành đang tích cực đưa sản phẩm của HTX lên sàn, hỗ trợ truy xuất nguồn gốc và hỗ trợ livestream, marketing. Đây là cơ hội cho HTX tăng giá trị và cần có nguồn lực lớn để thực hiện.
Hiện nay, HTX và nông dân chỉ đặt ra vấn đề liên minh HTX và chính quyền địa phương giúp 2 việc: Cách nào để tiếp cận vốn? Cách nào để sản xuất ra tiêu thụ được sản phẩm? Mặc dù câu hỏi của HTX, của doanh nghiệp đặt ra rất giản đơn nhưng đây là bài toán khó.
Nội dung thứ năm, khi chuyển sang chuyển đổi số, không ai có thể đi 1 mình. Trong bối cảnh hiện nay, khi các tiêu chuẩn môi trường càng khắt khe và điều kiện để xuất khẩu, nhu cầu của người dân đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao, thì càng đòi hỏi sự hợp tác giữa HTX và doanh nghiệp tư nhân là bắt buộc. Doanh nghiệp tư nhân có thể cung cấp giải pháp, HTX cung cấp nguyên liệu, cùng nhau đáp ứng các nhu cầu khắt khe của thị trường hiện nay.
Chúng tôi xin có các kiến nghị:
Một là, có cơ chế ưu tiên cho sự liên kết giữa doanh nghiệp tư nhân và HTX trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng và thực hiện chuỗi sản xuất ra hàng hoá chủ lực, thế mạnh của Việt Nam.
Hai là, xây dựng cơ chế tín dụng đặc thù cho HTX có đối tác chiến lược là doanh nghiệp tư nhân, hỗ trợ số hoá và chuyển đổi xanh cho HTX thông qua mô hình liên kết đầu tư tập trung, tránh đầu tư manh mún giàn trải.
Hiện nay HTX đang bơi giữa dòng chảy rất lớn, chưa ra được biển lớn, bởi vì HTX không đủ nguồn lực để thực hiện số hoá. Tất cả chương trình đầu tư không có bóng dáng của HTX, chỉ dành cho doanh nghiệp tư nhân và các lĩnh vực khác.
Thứ bà, thí điểm mô hình HTX mới theo cụm, ngành. Chúng tôi đang kiến nghị thành lập Liên đoàn HTX Lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long và nhiều dạng HTX khác. Vì trong thực tế, Luật cho phép HTX được thành lập công ty nhưng công ty lại không thành lập được HTX. Do vậy, nếu chúng ta phát huy được 33.000 HTX thì có thể có 33.000 công ty, doanh nghiệp tư nhân và với 8 triệu thành viên tham gia HTX, đây là nguồn rất lớn để hình thành 8 triệu doanh nghiệp tư nhân.
Thứ tư, về chính sách thuế, chúng tôi kiến nghị xem HTX là doanh nghiệp, nhưng các chế độ, chính sách như chính sách hỗ trợ tiếp cận về pháp luật, tiếp cận về nghiên cứu khoa học công nghệ thì không có đối tượng là HTX.

TS. Nguyễn Văn Đệ, Chủ tịch Hiệp hội Bệnh viện tư nhân Việt Nam: Thời điểm hiện tại chúng ta có 399 bệnh viện tư nhân, 50.000 phòng khám, điều này có được là do chủ trương của Chính phủ ra đời đúng lúc, động viên kịp thời. Để tăng tốc phát triển bệnh viện tư nhân, tôi xin kiến nghị một số vấn đề cần điều chỉnh, cụ thể như sau:
Thứ nhất về giao đất, đặc biệt là đất y tế phải đấu giá, đấu thầu khiến các địa phương rất khó khăn, vướng mắc.
Thứ hai, khâu thanh tra, kiểm tra nên nhất quán, đặc biệt cần giao trọng trách cho chủ tịch UBND các tỉnh nâng hiệu quả lãnh đạo lên, nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp.
Thứ ba, khi xây dựng chính sách cần có sự tham gia của các doanh nghiệp, để doanh nghiệp có cơ hội đóng góp ý kiến.

Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công: Cộng đồng doanh nghiệp rất phấn chấn với Nghị quyết 68, có thể nói tinh thần của cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp chưa bao giờ lên cao như bây giờ.
Trong nội dung của Nghị quyết 68 có nhiều chính sách cụ thể như bỏ thuế môn bài hay miễn thuế thu nhập trong 3 năm cho doanh nghiệp mới thành lập… Nghị quyết 68 cũng đưa ra những nội dung rất khó và nhạy cảm như vấn đề hình sự hóa đã đưa ra những định hướng chính sách cụ thể để người dân và doanh nghiệp an tâm bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh.
VCCI xin được tham gia 2 ý kiến:
Một là rào cản về cái điểm nghẽn về thể chế, chính sách và thủ tục hành chính. Hiện nay còn nhiều điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính không phù hợp, cần phải cắt giảm hoặc là đơn giản hóa. Ví dụ như một dự án đầu tư có sử dụng đất điển hình đang thực hiện thủ tục hành chính của ít nhất là 12 luật, hơn 20 nghị định và thông tư, và các thông tư này thường thay đổi liên tục. Do đó, thời gian để hoàn thành thủ tục nhanh cũng phải 18-24 tháng, bình thường là xấp xỉ 3 năm. Hiện nay, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã và đang rất quyết liệt trong việc cải cách thủ tục hành chính và tình hình cũng được cải thiện liên tục. Chúng tôi mong rằng việc cải cách thủ tục hành chính sẽ tiếp tục được đẩy mạnh.
Rào cản thứ hai là tâm lý, tư tưởng, đạo đức, văn hóa kinh doanh của chính cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp. đây chúng ta có tư tưởng là "doanh nghiệp không muốn lớn" và người dân thì ngần ngại bỏ tiền vào kinh doanh, vì thế có hiện tượng là tiền gửi trong ngân hàng cao như hiện nay. Nghị quyết 68 đã phá vỡ cái tâm lý của tư tưởng không muốn lớn này. Và minh chứng là gần đây 2 doanh nghiệp lớn nội địa cũng đã mạnh dạn đề xuất đầu tư dự án đường sắt cao tốc cho thấy là doanh nghiệp đã không ngần ngại nữa và họ chấp nhận kinh doanh thực sự sẽ có rủi ro.
Một rào cản nữa là một số ít các doanh nhân, doanh nghiệp còn có tư tưởng làm giàu, tìm kiếm lợi nhuận một cách phi pháp và phi đạo đức. Hiện chúng ta đang thấy những vụ việc được phát hiện, đặc biệt là lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh.
Để giải quyết điểm nghẽn này, tôi xin đề xuất trong triển khai Nghị quyết 68 cần phát huy mạnh mẽ hơn, thực chất hơn và hiệu quả vai trò của cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức đại diện doanh nhân, doanh nghiệp trong tham gia thực hiện Nghị quyết 68.
Trong cải cách thủ tục hành chính, cần hoàn thiện thể chế, xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi nâng cao sự tham gia tích cực, chủ động của doanh nhân, doanh nghiệp. Kinh tế tư nhân đã là một động lực thì cũng đề nghị các doanh nhân chủ động và mạnh mẽ hơn trong việc tham gia xây dựng chính sách.
VCCI cũng đề xuất Chính phủ và các địa phương tạo điều kiện và có các chương trình nâng cao năng lực và phát huy vai trò các hiệp hội và các doanh nghiệp trong tham gia xây dựng chính sách. Thực tế hiện nay các doanh nghiệp không tham gia một phần do năng lực yếu thì cần tổ chức các lớp, các chương trình bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo, nâng cao năng lực tham gia xây dựng chính sách cho các hiệp hội doanh nghiệp.
VCCI đề nghị Nhà nước mạnh dạn giao nhiệm vụ cho các hiệp hội doanh nghiệp, và chuyển một số dịch vụ công giao cho các hiệp hội doanh nghiệp thực hiện.
Về xây dựng đạo đức và văn hóa kinh doanh, tôi cho rằng đây là nhiệm vụ lớn và nền tảng cho sự phát triển kinh tế tư nhân một cách bền vững. Chính phủ có giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng đề án chuẩn mực đạo đức văn hóa kinh doanh. Đây là một thách thức rất lớn cho Bộ vì phải xây dựng hệ giá trị chuẩn mực chung về đạo đức văn hóa cho hàng triệu doanh nhân, doanh nghiệp. Đề nghị Chính phủ và Bộ VHTT&DL khi triển khai xây dựng đề án này cần phát huy sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp.
VCCI đang chủ động triển khai rất mạnh công việc này bằng việc ban hành bộ quy tắc đạo đức doanh nhân doanh nghiệp từ năm 2023 và sẵn sàng nhận nhiệm vụ cùng Bộ VHTT&DL trong xây dựng triển khai đề án này, đưa đạo đức văn hóa kinh doanh thành sức mạnh mới của doanh nhân doanh nghiệp Việt Nam.
Và điểm cuối cùng VCCI đề xuất là cần khơi dậy tinh thần kinh doanh, tăng cường việc tôn vinh doanh nhân doanh nghiệp. Hiện theo Nghị định 98 đang quy định là 5 năm mới được trao tặng và tôn vinh một lần. Do đó, chúng tôi đề xuất nên xem xét lại thời gian tôn vinh được thường xuyên hơn.
Chúng tôi xin cam kết cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp sẽ đồng hành cùng Chính phủ thực hiện Nghị quyết 68 và để làm sao để đưa Việt Nam phát triển và tạo nên một kỳ tích kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 21.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy: Chúng tôi xin phát biểu một số ý kiến liên quan đến các kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là về tiếp cận đất đai và mặt bằng sản xuất.
Thứ nhất, một điểm mới quan trọng trong Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 198 của Quốc hội và Nghị quyết số 139 của Chính phủ là yêu cầu các địa phương bắt buộc phải bố trí quỹ đất trong các khu công nghiệp để dành cho doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, và các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Tỉ lệ tối thiểu được quy định là 20 ha hoặc 5% diện tích của mỗi khu công nghiệp. Đây là quy định mang tính chất tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận đất đã có hạ tầng, giúp rút ngắn thời gian và chi phí đầu tư.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan để cụ thể hóa nội dung này trong các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, nhằm hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, chúng tôi cũng xin kiến nghị các bộ, ngành liên quan phối hợp giải thích rõ một số vướng mắc khác trong trường hợp giao đất cho các công trình y tế. Chúng tôi sẽ cùng các bộ, ngành cụ thể hóa trong văn bản hướng dẫn mới của Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
Vấn đề thứ hai liên quan đến ý kiến của ông Nguyễn Quốc Hiệp – Chủ tịch Hiệp hội các nhà thầu – về một số khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện Nghị định 71 (về định giá đất) và Nghị định 103 (về xác định nghĩa vụ tài chính đất đai đối với doanh nghiệp). Đây là những nội dung chúng tôi đã nhận diện được từ thực tiễn và đang tích cực xử lý.
Hiện nay, Bộ đang xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số nghị định trong lĩnh vực đất đai theo trình tự, thủ tục rút gọn, dự kiến trình Chính phủ ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7 tới. Riêng các nội dung nêu trên, tôi đã thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc nghiên cứu, tiếp thu để đưa vào bản dự thảo sửa đổi lần này.
Liên quan đến một số kiến nghị của ông Trần Mạnh, chúng tôi ghi nhận và cá nhân tôi cũng đã có lịch hẹn trực tiếp làm việc tại ThaiBinh Seed trong thời gian tới để lắng nghe đầy đủ các vướng mắc, không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường mà còn liên quan đến các lĩnh vực khác.
Đối với các nội dung thuộc thẩm quyền, chúng tôi sẽ giải quyết ngay. Còn những vấn đề vượt thẩm quyền, chúng tôi sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Các nội dung đáng chú ý bao gồm: Chính sách tiền sử dụng đất đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa học – công nghệ nông nghiệp; kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Trồng trọt và Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, đặc biệt là các quy định liên quan đến quản lý giống cây trồng.
Vấn đề thứ ba, liên quan đến ý kiến của ông Nguyễn Văn Đệ về việc tiếp cận đất đai cho các bệnh viện tư nhân, tôi xin làm rõ thêm như sau:
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2024, các dự án đầu tư kinh doanh dịch vụ nói chung tại khu vực đô thị – nơi đất có giá trị cao – thường phải thực hiện thông qua hình thức đấu giá hoặc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư có sử dụng đất.
Cụ thể: Nếu đất chưa giải phóng mặt bằng (chưa phải là "đất sạch"), thì thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư; Nếu là đất sạch, thông thường sẽ thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2024 có một điểm mới so với luật trước đây:
Trường hợp doanh nghiệp trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê thì áp dụng đấu giá.
Trường hợp doanh nghiệp trả tiền thuê đất hàng năm thì áp dụng đấu thầu.
Chính sự phân định này khiến các địa phương còn lúng túng trong lựa chọn hình thức áp dụng. Bên cạnh đó, luật và các nghị định của Chính phủ cũng cho phép một số trường hợp giao đất không qua đấu giá, đấu thầu, nhưng thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.
Để tháo gỡ vướng mắc này, Bộ đang xây dựng Nghị định về phân cấp, phân quyền, trong đó đã đề xuất chuyển thẩm quyền trên từ Thủ tướng Chính phủ cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Theo dự kiến, từ ngày 1/7 tới, khi Nghị định có hiệu lực, các trường hợp giao đất không qua đấu giá, đấu thầu sẽ do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư – trong đó có các bệnh viện tư nhân – tiếp cận đất đai thông qua hình thức chỉ định nhà đầu tư.
Về lâu dài, để giải quyết căn cơ các vấn đề vướng mắc hiện nay, chúng tôi đang xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, với phạm vi điều chỉnh lên tới 17 luật chuyên ngành. Dự kiến, dự thảo sẽ được trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 10 sắp tới. Khi được thông qua, luật này sẽ góp phần tháo gỡ toàn diện các khó khăn, bất cập đang đặt ra.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh: Chúng ta hiện nay có gần 1 triệu doanh nghiệp, kinh tế tư nhân đóng góp 50% GDP và khoảng 30% tổng thu ngân sách, sử dụng 80% lực lượng lao động. Đây có thể nói là sự đóng góp lớn của bộ phận kinh tế tư nhân trong thời gian qua.
Để Nghị quyết 68/NQ-TW của Bộ Chính trị được thực hiện hiệu quả, trong thời gian tới chúng ta cần phải phát triển 2 triệu doanh nghiệp và làm sao để con số tăng trưởng đạt 10-12%; và đạt mục tiêu chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo cũng như phát triển khoa học công nghệ phải đứng thứ 3 trong các nước ASEAN, đứng thứ 5 ở châu Á.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã triển khai 13 luật, hơn 30 nghị định và hơn 100 thông tư để cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực xây dựng, hàng không, đường sắt, đường thủy, vận tải, gắn phát triển kinh tế tư nhân vào Luật. Trong đó, đẩy mạnh phân cấp từ Trung ương cho chính quyền địa phương. Địa phương làm thì địa phương chịu trách nhiệm.
Thứ hai là cắt giảm các thủ tục hành chính, cắt giảm các điều kiện đầu tư kinh doanh không cần thiết trên tất cả các lĩnh vực về xây dựng, hàng không, đường sắt, đường thủy, các luật tham gia cùng các bộ ngành khác như Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư... Chẳng hạn như báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế xây dựng, triển khai thiết kế cơ sở, giảm số lượng chứng chỉ năng lực, đơn giản hóa các ngành nghề xây dựng...
Tại báo cáo số 2933 ngày 4/5/2025 gửi về VPCP, chúng tôi báo cáo đã cắt giảm 134/417 điều kiện kinh doanh, giảm 128/361 thủ tục hành chính, đạt 31%. Hiện nay, theo kế hoạch, đang hoàn thiện bước 2, chúng tôi tiếp tục cố gắng đạt mục tiêu cắt giảm được 50% thủ tục hành chính.
Liên quan đến ý kiến về mục tiêu phát huy nội lực kinh tế tư nhân - Lĩnh vực đầu tư công theo hình thức PPP, trong giai đoạn 2026 – 2030, chúng ta sẽ triển khai 26 tuyến cao tốc tương đương 5.242.000 tỷ, hiện đang để hình thức là đầu tư công.
Bộ Xây dựng kiến nghị với Chính phủ cho phép các doanh nghiệp tham gia với hình thức PPP để đỡ gánh nặng cho ngân sách quốc gia.
Đối với dự án 12 tuyến đường sắt quốc gia và 23 tuyến đường sắt đô thị TPHCM và Hà Nội với giá trị khoảng 5.087.000 nghìn tỷ trong giai đoạn từ nay đến năm 2035, cũng rất mong muốn được đầu tư theo hình thức PPP, công tư.
Việc đầu tư các bến cảng, luồng lạch là 104 nghìn tỷ; các bến thủy nội địa, hiện đã giao quyền cho các địa phương khoảng 27.000 tỷ. Việc nâng cấp các đường cất cánh của các cảng hàng không khoảng 23.000 tỷ, hiện đều có phân cấp về các địa phương. Mong rằng tất cả các doanh nghiệp tập trung theo lĩnh vực đầu tư PPP kết hợp công tư.
Đối với kiến nghị về việc 6 tháng các địa phương cần gặp doanh nghiệp để nghe góp ý, theo tôi không chỉ địa phương, mà các bộ cũng phải tham gia để nghe góp ý của các doanh nghiệp.
Về quy trình đầu tư bất động sản, cần tối giản các thủ tục. Đối với ý kiến đối về lĩnh vực xây dựng là nên hướng theo đơn giá tổng hợp thay vì độc lập thì cần phải tùy từng nội dung. Bởi có những hạng mục phải theo đơn giá độc lập chứ không thể theo đơn giá tổng hợp. Đối với đấu thầu thì chúng ta cần phải nghiên cứu, tổng hợp và phân tích thêm.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng: Chúng tôi rất cảm ơn các ý kiến đóng góp hết sức tâm huyết, trách nhiệm liên quan đến cơ chế, chính sách và nhiều vấn đề liên quan đến Bộ Tài chính do tôi chịu trách nhiệm và các ý kiến rất khí thế sôi nổi và đầy khát vọng cống hiến.
Chưa bao giờ Đảng, Nhà nước lại quan tâm đến doanh nghiệp tư nhân như bây giờ, từ nhìn nhận cho đến đánh giá. Tuy nhiên, bên cạnh đó, gánh nặng đối với chúng ta cũng rất lớn, trọng trách chúng ta rất lớn, bởi vì trong Nghị quyết 68 đã đưa ra những mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân rất lớn và rất cao để từ đó đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cũng như là phấn đấu để đất nước phát triển vào năm 2030- 2045.
Những mục tiêu rất lớn, ví dụ như năm 2030 nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao hay năm 2045 là nước phát triển có thu nhập cao. Cho nên đất nước muốn đạt được mục tiêu này thì chúng ta phải rất nỗ lực, cố gắng đạt được các mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết 68.
Với trách nhiệm là cơ quan tham mưu cho Chính phủ triển khai Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị, chúng tôi sẽ cụ thể hóa sớm nhất các nhóm giải pháp cũng như là 3 đột phá chiến lược trong Nghị quyết này. Rất may, trong Nghị quyết số 68 các chỉ đạo, giải pháp đặt ra cũng rất rõ ràng cho nên việc xây dựng các nghị định, các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính cũng như các bộ, ngành cũng không có vấn đề gì quá phức tạp. Việc quan trọng nhất là chúng tôi đã trình Chính phủ để cùng với các bộ, ngành ban hành sớm các nghị định và các văn bản hướng dẫn để đưa các cái chính sách này vào cuộc sống ngay.

Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Thị Hồng: Tọa đàm này thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc hiện thực hoá chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân. Lắng nghe ý kiến phát biểu, chúng tôi thấy nổi lên 3 vấn đề.
Thứ nhất là vấn đề tín dụng. Đây là vấn đề được các doanh nghiệp và các cấp lãnh đạo rất quan tâm. Tôi muốn nhắc tới con 2 số, con số dư nợ tín dụng cho khu vực tư nhân trên tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Nếu như trước đây số dư nợ tín dụng trong khối doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng chủ yếu thì nay, dư nợ tín dụng cho khu vực tư nhân đã chiếm đến 92-93% trong tổng số dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế. Có thể thấy được con số này phản ánh sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và cũng phản ánh sự cố gắng, nỗ lực của hệ thống ngân hàng.
Một con số nữa đề cập trong báo cáo của Bộ Tài chính là số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm gần 98% các doanh nghiệp nhưng chưa tiếp cận đến 20% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng. Trong khi đó ta thấy dư nợ tín dụng của khu vực tư nhân đã chiếm tới 93%. Và trong báo cáo này cũng đã đề cập đến kinh tế tư nhân đông nhưng chưa mạnh, doanh nghiệp có quy mô nhỏ, siêu nhỏ, sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế, năng suất lao động thấp, bộ phận doanh nghiệp thông tin chưa minh bạch. NHNN cho rằng đây chính là nguyên nhân lý giải việc các doanh nghiệp khó có thể chứng minh được việc mình vay ngân hàng nhưng có khả năng trả nợ được hay không. Tôi rất tâm đắc với ý kiến của chuyên gia Trần Đình Thiên, chuyên gia Cấn Văn Lực là phải có sự nỗ lực từ phía các doanh nghiệp và hy vọng các doanh nghiệp sẽ có sự nỗ lực quyết tâm như các ý kiến ngày hôm nay.
Từ phía ngành ngân hàng, chúng tôi sẽ rất quan tâm và tiếp tục chỉ đạo các đơn vị trong ngành để đồng hành cùng doanh nghiệp. Chúng tôi cũng rất mong Chính phủ quan tâm chỉ đạo thực hiện các giải pháp, để chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp được vay vốn thực chất hơn và phát triển các phân khúc khác của thị trường tài chính như là ý kiến của một số đại biểu. Có như vậy, tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới tăng lên được, vòng quay tín dụng về hệ thống ngân hàng sẽ tăng lên và vốn tín dụng sẽ đến được nhiều doanh nghiệp hơn.
Chúng ta có Luật Doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, 5 nghị định nhưng thực chất hiệu quả chưa cao. Cái này Chính phủ đang chỉ đạo rất quyết liệt.
Về vấn đề lãi suất, thời gian qua, ngay cả khi lãi suất thế giới tăng cao, ngành ngân hàng cố gắng điều hành, điều tiết để giảm liên tục mặt bằng lãi suất cho vay. Các tổ chức tín dụng trong hệ thống rất trách nhiệm và rất nhân văn trong việc giảm lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân. Tổng số tiền hỗ trợ lên tới 60.000 – 70.000 tỷ đồng. Một số gói tín dụng như thuỷ sản, cho vay mua nhà cho người có thu nhập thấp, v.v… đều là nguồn lực tài chính của các tổ chức tín dụng, không phải từ ngân sách.
Thực tế một số doanh nghiệp phản ánh ở đây mất chi phí, thời gian trong việc làm thủ tục về đầu tư sản xuất kinh doanh và quá trình này thường kéo dài. NHNN thấy rằng đây cũng là nguyên nhân một số doanh nghiệp kêu lãi suất phải trả cao. Với việc tinh gọn bộ máy và sửa đổi các luật như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu,… mà Chính phủ đang thực hiện theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, chắc chắn thủ tục sẽ được rút ngắn, giúp vòng quay vốn nhanh hơn và các doanh nghiệp sẽ tiếp cận được, thuận lợi hơn cho ngân hàng giảm lãi suất.
Vấn đề tín dụng, lãi suất là vấn đề luôn được quan tâm, và có thể nói các doanh nghiệp, người dân phản ánh qua rất nhiều thời kỳ, chứ không phải riêng một nhiệm kỳ nào cả. NHNN là ngân hàng Trung ương của nền kinh tế, bên cạnh việc quản lý cho vay của các tổ chức tín dụng, chúng tôi phải điều hành chính sách tiền tệ để góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối nên ngành ngân hàng không thể đạt được nhiều mục tiêu cùng một lúc, yêu cầu cùng một lúc. Đây là việc rất khó, rất áp lực, khi nền kinh tế của chúng ta có độ mở cửa lớn, khó lường, phức tạp. Nhưng trong nhiều năm, NHNN đã cố gắng điều hành để góp phần ổn định thị trường tiền tệ ngoại hối, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này vô cùng quan trọng với môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như những cái này bất ổn thì doanh nghiệp sẽ vô cùng khó khan.
Cuối cùng, chúng tôi xin thể hiện tinh thần tiếp tục điều hành, tiếp tục chia sẻ với doanh nghiệp và người dân.

Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao các đại biểu tham dự Tọa đàm đã thể hiện quyết tâm thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước trở thành sản phẩm, kết quả cụ thể, cân đong đo đếm được để báo cáo nhân dân với tinh thần đã nói là làm.
Thủ tướng cảm ơn các đại biểu với tâm huyết, công sức, kinh nghiệm đã mang tới Tọa đàm không khí rất dân chủ, cởi mở, thẳng thắn, có trao đi đổi lại, có phản biện, giúp Tọa đàm thành công. Các ý kiến đóng góp "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười".
Thủ tướng khái quát nội dung các ý kiến phát biểu của các đại biểu trong 6 nội dung lớn.
Thứ nhất, tất cả các đại biểu, doanh nghiệp đều thể hiện lòng yêu nước mạnh mẽ, khát vọng cống hiến cho sự nghiệp phát triển, nhanh, bền vững của đất nước, sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi Đảng, Nhà nước giao, đồng thời tâm lý lo, sợ rủi ro về pháp lý cũng được cởi bỏ.
Thứ hai, các doanh nghiệp, doanh nhân muốn khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình trong thực hiện Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị và các Nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, thể hiện sự lạc quan, tin tưởng, góp phần cùng Chính phủ kiến tạo sự phát triển.
Thứ ba, doanh nghiệp, doanh nhân sẽ góp phần tích cực để hiện thực hóa 2 mục tiêu chiến lược 100 năm của Đảng, Nhà nước ta (đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao); thể hiện quyết tâm, khẳng định chúng ta nếu có cách làm hay, tổ chức tốt thì có thể đạt tăng trưởng GDP từ 8% trong năm nay và 2 con số trong những năm tiếp theo; với quyết tâm và tin tưởng chắc chắn sẽ làm được.
Thứ tư, các doanh nghiệp, doanh nhân đều mong muốn Đảng, Nhà nước, nhân dân đã tin yêu rồi thì tin yêu nhiều hơn nữa, đã giao nhiệm vụ rồi thì muốn được giao nhiều nhiệm vụ hơn nữa, nhiệm vụ cao cả, nặng nề hơn để doanh nghiệp, doanh nhân thể hiện tính tiên phong của mình trong phục vụ phát triển đất nước nhanh, bền vững; và cũng để doanh nghiệp trưởng thành, tiến bộ hơn, khẳng định sự lớn mạnh của mình trong quá trình phát triển.
Thứ năm, các doanh nghiệp, doanh nhân mong muốn cắt giảm thủ tục hành chính rườm rà, xử lý các đề xuất của doanh nghiệp có lộ trình, có thời gian chứ không kéo dài, không để doanh nghiệp mơ hồ không biết lúc nào được trả lời, được giải quyết.
Thứ sáu, có cơ chế, chính sách cụ thể, rõ ràng, không chung chung để ưu tiên phát triển trong các lĩnh vực quan trọng, các công việc lớn của đất nước; tiếp tục cụ thể hóa các chính sách để doanh nghiệp yên tâm làm, cống hiến, được tiếp cận bình đẳng các nguồn lực của đất nước như vốn, khoáng sản, tài nguyên, nhân lực và các điều kiện cần thiết khác.

Về trách nhiệm của Chính phủ, các bộ ngành, lãnh đạo các địa phương, Thủ tướng nêu rõ 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp.
Thứ nhất, Chính phủ, các bộ ngành, địa phương thực hiện đúng vai trò kiến tạo, không sa vào những việc cụ thể: Một là xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; hai là xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách để phát triển kinh tế tư nhân; ba là thiết kế công cụ để kiểm tra, giám sát, tập trung hậu kiểm thay vì tiền kiểm; bốn là đánh giá, tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, xây dựng lý luận; năm là thi đua khen thưởng, tôn vinh doanh nghiệp, doanh nhân với quan điểm thương trường là chiến trường thì doanh nhân là chiến sĩ; đồng thời xử lý các vi phạm một cách kịp thời, chấn chỉnh, không ảnh hưởng tới danh dự của doanh nhân, doanh nghiệp. Thủ tướng nêu rõ, sẵn sàng tôn vinh các doanh nhân là anh hùng và các danh hiệu khác nếu xứng đáng với sự đóng góp.
Thứ hai, Chính phủ, các bộ ngành, địa phương tập trung thực hiện tốt hơn nữa 3 đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng và nhân lực; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, giảm thủ tục hành chính, giảm thời gian, giảm chi phí tuân thủ, giảm công sức cho người dân và doanh nghiệp; phát triển hạ tầng để tạo không gian phát triển mới, các khu đô thị, công nghiệp, dịch vụ mới, tăng giá trị gia tăng của đất, giảm chi phí đầu vào, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm; đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu về nhân lực của doanh nghiệp khi phát triển.
Thứ ba, Chính phủ, các bộ ngành, địa phương phải bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, trong đó có an toàn, an ninh mạng, để doanh nghiệp có điều kiện phát triển nhanh, bền vững. "Chúng ta không thể phát triển nhanh, bền vững trong một đất nước không ổn định, không bảo đảm trật tự an toàn, không có độc lập, tự do", Thủ tướng nêu rõ.
Thứ tư, Đảng, Nhà nước, các cơ quan có trách nhiệm liên quan phải bảo đảm tiếp cận bình đẳng về vốn, tài nguyên, đất đai, nguồn nhân lực, pháp lý, quyền tự do kinh doanh, bình đẳng, quyền tài sản của doanh nghiệp.
Thứ năm, Thủ tướng yêu cầu thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với doanh nghiệp để tìm lời giải cho vướng mắc. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thời gian qua đã thường xuyên tích cực, chủ động gặp doanh nghiệp, từ đầu năm 2025 đã gặp ít nhất 3 lần để bàn về xây dựng Nghị quyết 68, để tháo gỡ khó khăn và phản ứng chính sách với diễn biến mới. Đề xuất việc gặp gỡ hằng quý, Thủ tướng yêu cầu các bộ ngành, địa phương cũng phải tương tự như vậy, phải gặp gỡ doanh nghiệp thường xuyên, định kỳ hơn để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong ngành mình quản lý. Cùng với đó, phát huy vai trò Cổng Pháp luật quốc gia vừa được khai trương.
Đặc biệt, Thủ tướng đề nghị phải giải quyết xong các yêu cầu, khó khăn, đề xuất của doanh nghiệp trong vòng 2 tuần, "được hay không được thì phải nói, giải quyết đến đâu thông báo đến đấy chứ không chỉ trong nội bộ, cứ ỉm đi là không được".
Thứ sáu, với các đề xuất, nhất là những sáng kiến, những vấn đề cần có quản lý nhà nước, xây dựng pháp luật thì các bộ ngành, cơ quan lắng nghe, tiếp thu đầy đủ, nếu không tiếp thu phải giải trình.
Thứ bảy, NHNN và Bộ Tài chính, các bộ ngành liên quan nhiều tới hoạt động doanh nghiệp như Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thường xuyên rà soát các chính sách như chính sách tiền tệ, tài khóa, nguyên vật liệu, xây dựng…

Về chính sách tiền tệ, Thủ tướng đề nghị ngành ngân hàng cố gắng chia sẻ với doanh nghiệp, doanh nghiệp phát triển thì ngân hàng mới phát triển được. Về chính sách tài khóa, Thủ tướng cho rằng chính sách thuế, phí, lệ phí khi cần phải làm ngay, kịp thời, linh hoạt, hiệu quả, "khi người mới ốm thì chữa rất đơn giản nhưng để bệnh nặng lên thì vừa mất thời gian, vừa phải thuốc nhiều hơn, chi phí nhiều hơn, nằm viện nhiều hơn, tốn kém nhiều hơn".
"Các doanh nghiệp kiến nghị thì phải giải quyết trong 2 tuần, nhưng chúng ta cũng phải thường xuyên đổi mới, xem doanh nghiệp cần gì, vướng gì thì tích cực, chủ động giải quyết", Thủ tướng nói.
Về các mong muốn với doanh nghiệp, doanh nhân, Thủ tướng cũng nêu rõ 6 nội dung.
Thứ nhất, doanh nghiệp, doanh nhân hoạt động đúng luật, đề cao đạo đức kinh doanh, trách nhiệm công dân.
Thứ hai, doanh nghiệp, doanh nhân không ngừng đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, quản trị thông minh, đặc biệt là chuyển giao công nghệ nguồn, công nghệ lõi, doanh nghiệp phải đi đầu, tiên phong, đi trước đón đầu trong lĩnh vực này để mang lại lợi ích quốc gia, dân tộc.
Thứ ba, các doanh nghiệp tư nhân chia sẻ, giúp đỡ, hợp tác, kết nối chặt chẽ, hiệu quả hơn với nhau, với các doanh nghiệp FDI, với các doanh nghiệp nhà nước để tạo chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất, chuỗi dịch vụ rộng hơn, mang tính cả nước và phạm vi toàn cầu.
Thứ tư, các hộ kinh doanh phải trở thành doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thành doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp lớn trở thành doanh nghiệp toàn cầu, đa quốc gia, có chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thứ năm, doanh nghiệp, doanh nhân tham gia vào quá trình bảo đảm tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội, bảo đảm quyền tiếp cận bình đẳng về tất cả các lĩnh vực mà Đảng, Nhà nước quan tâm, đặc biệt là tiếp cận bình đẳng với hạ tầng, giáo dục, y tế, điện, mạng…, đặc biệt là tích cực tham gia xây dựng nhà ở xã hội và xóa nhà tạm, nhà dột nát trên cả nước.
Thứ sáu, doanh nghiệp, doanh nhân cùng Chính phủ, các bộ ngành dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước tham gia kiến tạo phát triển, góp ý xây dựng thể chế, phát triển hạ tầng, đào tạo nhân lực chất lượng cao, góp phần để xây dựng và bảo vệ đất nước theo hướng "ổn định bền vững, phát triển bền vững, tương lai bền vững", nhân dân ngày càng hạnh phúc, ấm no.
Về các đề xuất tại tọa đàm, lãnh đạo một số bộ ngành đã phản hồi, Thủ tướng giao Văn phòng Chính phủ tổng hợp, giao các bộ ngành tiếp tục phản hồi, trả lời doanh nghiệp./.
>> Những quyết sách đặc biệt quan trọng, cấp bách được Quốc hội thông qua