Tên tuổi của bà gắn liền với cuộc kháng chiến trường kỳ chống Mỹ, cứu nước của dân, quân miền Nam.
Thủ lĩnh "Đội quân tóc dài" huyền thoại
Nữ tướng Nguyễn Thị Định (người dân vẫn trìu mến gọi cô Ba Định) sinh ngày 15/2/1920 tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, bà sớm giác ngộ và lựa chọn con đường đi theo cách mạng.
Nữ tướng tham gia hoạt động cách mạng từ năm 16 tuổi và chỉ 2 năm sau đã vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1940, khi mới sinh con được 3 ngày thì bà và chồng mình đều bị địch bắt, bản thân bà bị biệt giam tại nhà tù Bà Rá, tỉnh Sông Bé (nay là tỉnh Bình Phước), phải gửi con trai về nhờ gia đình nuôi.
Bị giam cầm đến năm 1943 thì bà lâm bệnh nặng, kẻ địch buộc phải thả bà về quản thúc tại địa phương. Trong khi sức khỏe chưa hồi phục thì bà hay tin chồng hy sinh ngoài Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Thời gian này, bà đã liên lạc được với tổ chức đảng, chính quyền cách mạng của tỉnh Bến Tre và trực tiếp tham gia giành chính quyền ở thị xã Bến Tre (nay là TP. Bến Tre) trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám (1945).
Tuy ít tuổi nhưng bà đã được Tỉnh ủy chọn là người phụ nữ đầu tiên của Đoàn cán bộ Nam Bộ vượt biển ra Bắc báo cáo với Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam bộ và xin vũ khí chi viện.
Bà cũng là người duy nhất trong phái đoàn 4 người trở về Bến Tre với chiếc thuyền chở đầy vũ khí. Vượt qua mạng lưới bố phòng dày đặc của địch, con tàu “không số” chở 12 tấn vũ khí đã cập bến an toàn, kịp thời chi viện cho chiến trường Nam Bộ; trở thành một trong những người góp phần quan trọng cho việc hình thành “đường Hồ Chí Minh trên biển” ngay từ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và phát triển rực rỡ sau này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bến Tre là một trong những chiến trường ác liệt, là nơi Mỹ - Ngụy thí điểm áp dụng các chiến thuật và thủ đoạn quân sự mới với chiêu bài "tố cộng, diệt cộng", đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng, biến cả miền Nam thành nhà tù, trại tập trung dưới cái tên "ấp chiến lược".
Nghị quyết 15 của Trung ương ra đời và đến với tỉnh Bến Tre như “nắng hạn gặp mưa rào”. Theo đó, Đảng chủ trương sử dụng vũ trang để hỗ trợ đấu tranh chính trị, điều này cũng đáp ứng được nhu cầu tình thế và sự mong ước của Đảng bộ và nhân dân xứ dừa. Bà Nguyễn Thị Định sau khi được quán triệt Nghị quyết số 15, trở về cùng lãnh đạo Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị cán bộ vào đêm 2/1/1960 tại Mỏ Cày.
Bằng sự khéo léo, tài tình, bà cùng các Tỉnh ủy viên đã lãnh đạo cuộc nổi dậy Bến Tre thành công ngoài mong đợi, tạo tiếng vang và hiệu ứng lan tỏa khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam.
Khả năng lãnh đạo của bà còn được thể hiện qua việc gắn kết các tầng lớp xã hội, bà truyền lửa, tạo ra sức mạnh vô hình cho ngay cả những lực lượng vốn gọi là chân yếu, tay mềm.
Lần đầu tiên, hơn 5.000 phụ nữ gồm cả thanh niên, bà già, trẻ em của xã Phước Hiệp, Bình Khánh, Thành Thới… họp thành một đoàn lớn, đầu đội khăn tang, mặc áo rách bồng con kéo vào quận Mỏ Cày, đòi chấm dứt khủng bố, trừng trị bọn ác ôn ở Phước Hiệp. Giằng co với địch suốt mấy ngày đêm, mỗi ngày lại có thêm lực lượng đến chi viện, khí thế của ta càng sôi sục.
Cuối cùng, tên quận trưởng đã phải chịu rút hết lính khỏi xã Phước Hiệp. Từ đây, một hình thức đấu tranh mới của Bến Tre ra đời, độc đáo và hiệu quả, khiến bè lũ quân địch khiếp sợ và gọi với cái tên “Đội quân tóc dài”.
Từ chiếc nôi Đồng Khởi, đội quân này đã phát triển lan rộng toàn miền Nam. Sự ra đời của “Đội quân tóc dài” đã làm cho sức mạnh của phong trào phụ nữ miền Nam được nhân lên gấp nhiều lần. Trong đấu tranh chính trị, các chị em làm tốt công tác địch vận, vận động chồng, con, em mình bỏ ngũ, giải thích chính nghĩa cho binh lính, làm cho họ hạ súng, bỏ đồn, cao hơn là giác ngộ cách mạng, xây dựng tổ chức ngay trong lòng địch…
“Một phụ nữ đã chỉ huy thắng lợi cuộc Đồng Khởi ở Bến Tre thì người đó rất xứng đáng được làm tướng”, cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh từng nhận xét về bà.
"Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy"
Sau cuộc Đồng Khởi thắng lợi vang dội, bà được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Năm 1961, bà là Khu ủy viên Khu 8. Năm 1964, bà được bầu là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1965, tại Đại hội Phụ nữ toàn miền Nam, bà được bầu là Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam.
Những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt ấy, rừng miền Đông vẫn thấy nữ tướng không mặc quân phục, không đeo quân hàm khi ra trận nhưng tài chỉ huy, lòng trách nhiệm, sự dũng cảm, sự thấu đáo của bà đã góp phần xoay chuyển tình hình từ bị động chuyển sang phòng ngự và chủ động tấn công.
Năm 1965, bà Nguyễn Thị Định được phong quân hàm Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam và được giao giữ chức Phó Tổng Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam đến năm 1975.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự hào nói về nữ tướng Nguyễn Thị Định: “Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.
Sau khi miền Nam được giải phóng, non sông thống nhất, bà chuyển về thủ đô Hà Nội công tác, đảm đương nhiều vị trí, chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Tháng 6/1987, Nguyễn Thị Định được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, bà cũng là nữ Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên những cương vị mới, bà tiếp tục thể hiện bản lĩnh của một người lãnh đạo uy tín, quan tâm, chỉ đạo, xử lý công việc kịp thời trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Bà từng được Liên đoàn Phụ nữ dân chủ thế giới bầu vào cương vị Phó Chủ tịch Liên đoàn. Bài phát biểu của đại diện phụ nữ Anbani có đoạn: “Chúng tôi vô cùng tự hào có người bạn chiến đấu là chị Nguyễn Thị Định. Chị đã thay mặt cho phụ nữ chúng ta giương cao chủ nghĩa anh hùng cao cả và cổ vũ cho hàng triệu phụ nữ yêu tự do, vì hòa bình và tiến bộ xã hội”.
Ngày 26/8/1992, trái tim của vị nữ tướng huyền thoại Nguyễn Thị Định ngừng đập. Bà được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và nhiều huân chương cao quý khác.