Yếu tố đặc biệt về nguồn lực làm đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam
Đường sắt tại Việt Nam trước nay đều là khổ một mét, đã được hình thành từ hơn một trăm năm và gần như ít có sự thay đổi về mặt công nghệ. Vì thế khi chuyển sang đường sắt tốc độ cao sẽ đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao, được đào tạo theo hướng hiện đại và hội nhập.
Tạo ra hàng triệu việc làm
Trao đổi với PV Tiền Phong, PGS.TS. Nguyễn Hồng Thái - Trường Đại học Giao thông vận tải (GTVT) - cho biết, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam là "siêu dự án" có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển đất nước đã được Quốc hội bấm nút thông qua. Dự án sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng trong tương lai, tái cấu trúc đô thị, phân bổ dân cư và lao động trên hành lang Bắc - Nam, thúc đẩy năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Mọi vấn đề liên quan đến đường sắt tốc độ cao đều đang được đặc biệt quan tâm, trong đó có khả năng tự chủ của Việt Nam trong vấn đề xây dựng và vận hành dự án. Bởi việc này tạo cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp nội địa tham gia vào dự án.
![]() |
Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam góp phần đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng trong tương lai, tái cấu trúc đô thị, phân bổ dân cư. Ảnh minh họa: Lộc Liên. |
Theo vị chuyên gia giao thông, đây là lần đầu tiên Việt Nam triển khai dự án đường sắt tốc độ cao, đòi hỏi những công nghệ, kỹ thuật rất tiên tiến và hiện đại, nhưng chúng ta lại chưa có kinh nghiệm và nền tảng công nghiệp để đồng hành trong quá trình triển khai.
Nhìn thẳng thắn thì với năng lực hiện tại, doanh nghiệp nội địa chưa thể tự chủ được nhiều trong cả ba phần việc liên quan tới hoạt động của đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam gồm đầu tư, xây dựng; khai thác, vận hành và duy tu, bảo dưỡng. Nhưng nếu phụ thuộc hoàn toàn vào nước ngoài ở cả ba khâu vừa nêu thì chúng ta đã đánh mất cơ hội tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động và cơ hội phát triển của doanh nghiệp Việt Nam.
Theo nghiên cứu của đơn vị tư vấn, tổng nhu cầu vốn cho dự án ước tính 67,34 tỷ USD. Trong đó, phần lớn vốn đầu tư tập trung vào xây lắp hạ tầng, chiếm gần 33,5 tỷ USD. Ngoài ra các hạng mục như hệ thống điều khiển, cấp điện và phương tiện cũng đóng góp một phần đáng kể vào tổng chi phí dự án.
![]() |
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động. Ảnh: Bộ Xây dựng (Bộ Giao thông vận tải trước đây). |
“Việt Nam hiện nay chưa thể làm chủ được công nghệ về đường sắt tốc độ cao, do đó bắt buộc chúng ta cần nước ngoài tham gia vào việc xây dựng dự án. Tuy nhiên, quá trình xây dựng chúng ta có thể yêu cầu nhà thầu nước ngoài phải có phần chia sẻ công việc cho nhà thầu phụ phía Việt Nam. Ví dụ như phần việc về thi công đường ray hay đào hầm”, TS Nguyễn Hồng Thái nói và cho rằng cần thống nhất quan điểm về việc các nhà thầu nước ngoài chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam khi xây dựng và khai thác vận hành dự án.
Việc chuyển giao công nghệ giữa nhà thầu nước ngoài với nhà thầu phía Việt Nam sẽ giảm bớt gánh nặng về chi phí xây dựng và vận hành, đặc biệt sẽ giúp Việt Nam tiến tới từng bước làm chủ công nghệ trong tương lai, nâng cao vị thế, năng lực và sự tự tin khi phát triển các lĩnh vực mới của doanh nghiệp Việt.
Bồi dưỡng nhân lực chất lượng cao
Theo vị chuyên gia đến từ Trường Đại học Giao thông vận tải, để làm dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, hiện nay chúng ta thiếu rất nhiều yếu tố như nghiên cứu, kinh nghiệm và đặc biệt là nhân lực.
Nguyên nhân là do đường sắt tại Việt Nam trước nay đều là khổ 1m, đã được hình thành từ hơn 100 năm và gần như ít có sự thay đổi về mặt công nghệ, vì thế khi chuyển sang đường sắt tốc độ cao sẽ đòi hỏi nguồn lực được đào tạo theo hướng hiện đại và hội nhập. Nguồn lực này bao gồm cơ quan nghiên cứu, đào tạo và nhân lực về đường sắt.
Hiện nay, nước ta chỉ có Trường Đại học Giao thông vận tải đào tạo đầy đủ nhất về các hoạt động đường sắt trong gần 60 năm nay, gồm lĩnh vực cơ sở hạ tầng đường sắt như đầu máy và toa xe, lĩnh vực thông tin tín hiệu đường sắt và kinh tế vận tải đường sắt.
![]() |
PGS, TS. Nguyễn Hồng Thái - Trường Đại học Giao thông vận tải. Ảnh: NVCC. |
Trong bối cảnh hiện tại, Trường Đại học Giao thông vận tải cũng đang tích cực đào tạo, tăng cường trao đổi và học hỏi kinh nghiệm từ nhiều trường đại học của các nước có ngành đường sắt tốc độ cao phát triển. Điển hình như hợp tác với đại học Bắc Kinh, đại học Tây Nam ở Trung Quốc, các trường đại học ở Hàn Quốc và Đức.
Ông Nguyễn Hồng Thái cho rằng, nếu doanh nghiệp Việt muốn tham gia vào dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam thì điều đầu tiên là họ cần phải xác định rõ mục đích muốn tham gia ở khâu nào, nội dung nào rồi từ đó đưa ra phương án nghiên cứu để đầu tư.
Các doanh nghiệp Việt cần cũng cần cử nhân lực đi học hỏi kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn về đường sắt tốc độ cao ở trong nước và các nước phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật hay Đức... để nhận thức được những vấn đề mà doanh nghiệp cần phải bổ sung nếu tham gia phát triển dự án.
“Bên cạnh thách thức thì chúng ta vẫn có thuận lợi nhất định khi nhiều năm gần đây các doanh nghiệp Việt Nam đã có sự dịch chuyển từ các lĩnh vực hoạt động dịch vụ, bất động sản sang lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao. Tuy nhiên để biến mong muốn tự chủ trong vấn đề xây dựng và vận hành dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam thành hiện thực sẽ cần một quá trình dài, nhưng nếu doanh nghiệp Việt Nam không bắt đầu, thì sẽ không thể đi tiếp bước thứ 2…”, ông Thái bày tỏ.
Theo PGS, TS Phan Hoàng Nam - Phó Trưởng khoa Xây dựng cầu đường, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng, các trường đại học cần lập kế hoạch phát triển đào tạo trong giai đoạn 5-10-15 năm tới một cách phù hợp. Các trường cần có chính sách học bổng, khuyến khích sinh viên theo học ngành đường sắt tốc độ cao. Xây dựng lộ trình nghề nghiệp rõ ràng để thu hút nhân tài chất lượng cao vào ngành đường sắt cũng như tăng cường hợp tác với các bộ, ngành, doanh nghiệp liên quan để sinh viên có cơ hội thực tập và làm việc sau khi tốt nghiệp.
>> Loạt doanh nghiệp Hàn Quốc muốn tham gia dự án điện hạt nhân, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam