Xã hội

Bản hùng ca 80 năm

VĂN KIÊN 09/08/2025 08:51

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ áng văn lập quốc thiêng liêng ấy, cả dân tộc đã cùng nhau đi qua 80 năm, giữ vững độc lập, thống nhất non sông, không ngừng đổi mới để hiện thực hóa khát vọng hùng cường.

bac-ho-doc-tuyen-ngon.jpg
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Ðộc lập tại Quảng trường Ba Ðình ngày 2/9/1945

Bài 1: Mùa thu ấy, một kỷ nguyên mới bắt đầu

“Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”. Câu hỏi trưa 2/9/1945 khiến hàng vạn trái tim vỡ òa trong nước mắt. Từ đây, “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.

Không được trực tiếp chứng kiến thời khắc lịch sử của những ngày tháng Tám lịch sử, nhất là giây phút Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, nhưng qua nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của Đảng, qua tư liệu trong nước và quốc tế, qua lời kể của người thân, PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, cảm nhận rất rõ khí thế hào hùng của dân tộc trong những ngày mùa Thu lịch sử tháng Tám năm 1945.

“Cả nước sục sôi, theo tiếng gọi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người dân cả nước thấy rằng thời cơ giành độc lập đã tới, và mọi người truyền tai nhau: “Đi thôi!”. “Tôi được nghe kể lại rằng, thời điểm đó dân chúng náo nức xuống đường tổng khởi nghĩa giành chính quyền, ai cũng muốn được trở thành người làm cách mạng”, ông Hà nói. Và rồi, ngày 2/9/1945, chính thức mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do, trong thời đại Hồ Chí Minh, theo cách gọi của PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà.

1.jpg
Người thanh niên Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Ảnh: Tư liệu

Từ bến Nhà Rồng

Nhưng để có được Ngày Độc lập ấy, dân tộc Việt Nam đã trải qua một hành trình đầy gian truân và kỳ vĩ, khởi đầu từ một con người, một lý tưởng và một hành trình tìm đường cứu nước xuyên ba châu lục... Ngày 5/6/1911, trên con tàu Amiral Latouche Tréville, chàng trai Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng, mang trong tim khát vọng “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Theo GS.TS sử học Mạch Quang Thắng, Ủy viên Hội đồng Khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, sự kiện này là kết quả của tư duy và hành động rất đúng đắn của người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau khi cảm nhận được sự thất bại của con đường cứu nước của các thế hệ trước. Cuối tháng 12/1920, tại Đại hội 18 Đảng Xã hội Pháp, Bác trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920. Đó là mốc đánh dấu Bác tìm thấy mục tiêu và con đường mới, rất đúng đắn, phù hợp với sự phát triển của dân tộc Việt Nam: Mục tiêu chủ nghĩa cộng sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

“Đây không chỉ là sự kiện mang dấu ấn cá nhân Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc, mà còn có ý nghĩa rất to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Bởi vì, sau sự kiện này, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị về mọi mặt cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, khẳng định lại mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc Việt Nam”, GS.TS Thắng nói.

Sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, năm 1941, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về nước, trực tiếp lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành Tổng khởi nghĩa. Theo PGS.TS Hà, từ khi Đảng ra đời, đường lối giải phóng dân tộc, giành độc lập, mang lại tự do cho nhân dân đã chạm vào khát vọng ngàn đời của dân tộc. Nhân dân nhận ra đây là tổ chức có thể hiện thực hóa mong muốn của mình, nên họ tự giác đi theo. Đó là sự lựa chọn tự thân, từ lòng yêu nước, từ khao khát đổi đời. “Thời điểm năm 1945, cả nước chỉ có khoảng 5.000 đảng viên hoạt động bí mật, nhưng đã vận động, lãnh đạo hàng triệu người dân cả nước đứng lên khởi nghĩa giành độc lập. Điều đó cho thấy, nhân dân đặt niềm tin vào Đảng, vào Chủ tịch Hồ Chí Minh”, ông Hà nói.

“Bản Tuyên ngôn Ðộc lập - sự tiếp nối của “Nam quốc sơn hà” thế kỷ XI, “Bình Ngô đại cáo” thế kỷ XV của nước Ðại Việt - vẫn là niềm cảm hứng lớn lao bất diệt cổ vũ cho cả dân tộc Việt Nam đi tới theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

GS. TS Mạch Quang Thắng

(Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)

ba-dinh.jpg
Hàng vạn người dân Hà Nội tham gia sự kiện 2/9/1945. Ảnh: Tư liệu

Tiếng nói khai sinh kỷ nguyên độc lập

Từ hành trình ra đi tìm con đường “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”…, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trong thời khắc thiêng liêng, chỉ một câu nói mở đầu của Bác Hồ: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?” đã đủ lay động lòng người. “Cả Quảng trường Ba Đình khi đó đồng thanh đáp lại: “Có!”, cho thấy sự đồng thuận, sự tin tưởng và tình cảm rất lớn của nhân dân dành cho một chính phủ cách mạng non trẻ, theo nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng Nguyễn Mạnh Hà

Theo GS.TS Sử học Mạch Quang Thắng, bản Tuyên ngôn Độc lập đã chính thức khai sinh một chế độ chính trị hoàn toàn mới trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Với chế độ chính trị này, người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ, làm chủ đất nước và làm chủ vận mệnh của mình. “Từ đây, Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền, cầm quyền là do uy tín của Đảng qua bao hi sinh, kể cả hi sinh tính mệnh của những người cộng sản, rồi được nhân dân tín nhiệm trao quyền lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa dân tộc phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, ông Thắng nói.

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Bác Hồ dẫn lại một phần Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789, khẳng định những quyền cơ bản: “Quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” là quyền trời cho, không ai có thể tước đoạt. Theo nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng Nguyễn Mạnh Hà, Bác không chỉ dẫn lại các tuyên ngôn ấy như một cách tạo tính chính danh quốc tế, mà còn thể hiện một lập luận rất sắc sảo.

Bác nói: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đó là lời của Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ. Nhưng Bác lập tức suy rộng ra: Nếu con người có quyền ấy thì dân tộc - một cộng đồng người - cũng có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Ở đây, Bác vừa khẳng định quyền con người, vừa nâng tầm thành quyền dân tộc. Và sâu xa hơn, Bác như muốn gửi đến các cường quốc, đặc biệt là Mỹ và Pháp, một thông điệp rõ ràng: Nếu cha ông các ông từng viết ra những bản tuyên ngôn ấy, thì ngày hôm nay, các ông không có lý do gì để chối bỏ quyền độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam”, ông Hà nói.

Trong phần cuối của bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Theo GS. TS Thắng, điều đó biểu thị quyết tâm không gì lay chuyển được của toàn dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng đã giành được. Đặc biệt, theo ông, thời điểm ấy, sự khẳng định đó có ý nghĩa rất lớn khi cách mạng Việt Nam đang chuẩn bị bước vào những thách thức cực kỳ gay go, với tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” sau khi giành được độc lập.

PGS.TS Hà khẳng định: Câu nói ấy chính là lời thề thiêng liêng của cả một dân tộc trước bạn bè quốc tế và trước lịch sử. Đó không chỉ là một tuyên bố mang tính pháp lý mà còn là một thông điệp mạnh mẽ, đanh thép gửi đến tất cả những thế lực từng hoặc có ý định xâm lược Việt Nam: Chúng tôi rất yêu quý nền độc lập này, và chúng tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả - kể cả tính mạng - để bảo vệ.

Theo tienphong.vn
https://tienphong.vn/ban-hung-ca-80-nam-post1767602.tpo
Đừng bỏ lỡ
    Đặc sắc
    Nổi bật Người quan sát
    Đọc tiếp
    Bản hùng ca 80 năm
    POWERED BY ONECMS & INTECH