Bộ trưởng Lê Minh Hoan: Cả nước chỉ còn khoảng 8 triệu tấn gạo cho xuất khẩu
Bộ trưởng NN&PTNT ước tính, ngoài lượng tiêu thụ nội địa, cả nước còn khoảng 13,5 triệu tấn thóc, tương đương 7-8 triệu tấn gạo cho xuất khẩu.
Mới đây, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan đã nêu báo cáo giải trình các vấn đề chất vấn gửi các đại biểu Quốc hội ngày 10/8. Theo kế hoạch, Bộ trưởng Lê Minh Hoan sẽ đăng đàn trả lời chất vấn các vấn đề của ngành nông nghiệp tại phiên họp thứ 25 Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chiều 15/8.
Đề cập tới xuất khẩu nông sản, nhất là gạo trong bối cảnh một số quốc gia như Ấn Độ, Nga, UAE cấm xuất mặt hàng này, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, diện tích gieo trồng lúa hiện khoảng 7 triệu ha, cho sản lượng 43 triệu tấn thóc một năm, tương đương 27-28 triệu tấn gạo.
Bộ trưởng cho rằng, gạo vẫn là mặt hàng tiêu dùng chính, chiếm 70% trong tiêu dùng lương thực thực phẩm. Do đó, giữ 3,5 triệu ha đất lúa theo kết luận của Bộ Chính trị, các nghị quyết của Quốc hội là cần thiết để đẩm bảo an ninh lương thực quốc gia, bảo đảm sinh kế, thu nhập cho người trồng lúa.
Theo tính toán ở kịch bản an toàn cao, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT cho biết, lượng lúa dùng cho đảm bảo an ninh lương thực của 100 triệu dân và các nhu cầu tiêu thụ nội địa khác (dùng chế biến, thức ăn chăn nuôi, dự trữ trong dân, dự trữ quốc gia, làm giống...) khoảng 29,5 triệu tấn thóc một năm. Như vậy, cả nước sẽ còn khoảng 13,5 triệu tấn thóc, tương đương 7-8 triệu tấn gạo dành cho xuất khẩu.
Ngoài thóc, gạo sản xuất, mỗi năm Việt Nam cũng nhập khẩu sản lượng gạo nhất định từ Campuchia, Ấn Độ. Chẳng hạn, lượng gạo nhập từ Campuchia khoảng hơn 1 triệu tấn mỗi năm, để bù đắp trong trường hợp cần thiết.
Việt Nam cũng nhập khẩu từ Ấn Độ. Theo số liệu của Bộ Công Thương Ấn Độ, tính chung 5 tháng đầu năm 2023, Việt Nam nhập khoảng 367.500 tấn gạo Ấn Độ, tăng gần 32% so với cùng kỳ 2022 và đứng thứ 8 trong số các nước nhập gạo từ quốc gia tỷ dân này.
Sau tuyên bố cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ, Nga, UAE, giá gạo Việt Nam trên thị trường thế giới tăng liên tục trong hai tuần qua, cao nhất gần 660 USD một tấn với gạo 5% tấm. Nhiều thị trường như Trung Quốc, Philippines, Indonesia đang tranh mua gạo Việt với số lượng tăng 40% đến vài chục lần.
Theo thống kê của Bộ Công Thương, đến cuối tháng 7, Việt Nam xuất khẩu 4,83 triệu tấn gạo, thu về gần 2,6 tỷ USD. Các thị trường xuất khẩu truyền thống chủ yếu ở châu Á là 3,3 triệu tấn (chiếm hơn 77%), tăng gần 36% so cùng kỳ năm ngoái. Một số thị trường tăng trưởng vượt bậc như EU chiếm 2% tổng sản lượng nhưng đạt hơn 84.000 tấn, tăng 28% so cùng kỳ năm trước.
Về kế hoạch an ninh lương thực năm 2023, trưởng ngành nông nghiệp cho biết, tổng diện tích lúa cả nước năm nay khoảng 7,1 triệu ha, sản lượng ước đạt trên 43,1 triệu tấn thóc, tăng hơn 452.000 tấn so với 2022. Từ nay đến cuối năm nếu không có diễn biến bất thường của thời tiết thì sản lượng lúa sẽ bảo đảm kế hoạch đáp ứng đầy đủ nhu cầu lúa gạo trong nước và yêu cầu xuất khẩu.
Nguồn cung giảm, khả năng tiếp cận lương thực đang chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, song theo Bộ trưởng Hoan, đảm bảo an ninh lương thực không chỉ là đủ lượng lúa gạo, còn gồm các sản phẩm lương thực, thực phẩm (thịt cá, rau quả, cây lương thực khác).
Ngoài lúa gạo, hàng năm Việt Nam sản xuất bình quân khoảng hơn 7 triệu tấn thịt hơi xuất chuồng, 10 triệu tấn thủy sản và chục triệu tấn rau quả. "Về tổng thế ở cấp độ quốc gia, an ninh lương thực nếu xét trên khả năng cung cấp là đảm bảo", Bộ trưởng Nông nghiệp khẳng định.
Tuy vậy, khó khăn trong xuất khẩu nông sản vẫn hiện hữu khi nhu cầu thị trường phục hồi chậm. Theo Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, những biến động trên thị trường lương thực thế giới gần đây, như Ấn Độ và một số quốc gia dừng xuất khẩu gạo, Thái Lan khuyến nghị giảm diện tích trồng lúa để tránh hiện tượng El Nino; sáng kiến ngũ cốc biển đen không được gia hạn; xung đột địa chính trị tại châu Phi và Ukraine kéo dài... cũng tác động không nhỏ tới xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
7 tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 29,13 tỷ USD, giảm 9,1% so với cùng kỳ năm 2022. Một số ngành hàng được doanh nghiệp tận dụng cơ hội thị trường, tăng xuất khẩu như rau quả (3,2 tỷ USD, tăng 68,1%), gạo (2,58 tỷ USD, tăng 29,6%), cà phê (2,76 tỷ USD, tăng 6%), hạt điều (1,95 tỷ USD, tăng 9,8%).
Gỡ 'thẻ vàng' IUU là bước đầu phát triển ngành thủy sản bền vững
Bộ trưởng NN&PTNT Lê Minh Hoan nói về 'nỗi đau của kinh tế biển'